LỜI NÓI ĐẦU Trong thời đại ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển trên xu thế hiện đại hóa công nghiệp hóa, việc tổ chức sắp xếp một cách khoa học các hoạt động giao tiếp, các công việc hành chính văn phòng trong công sở, cơ quan, đơn vị và các tổ chức doanh nghiệp là nhu cầu bức thiết hiện nay. Trong đó công việc soạn thảo văn bản là một mảng quan trọng không thể tách rời cùng sự phát triển lớn mạnh của cơ quan đơn vị mà đặc biệt là các doanh nghiệp. Việc soạn thảo văn bản tốt sẽ giúp cho các họat động điều hành quản lý của cơ quan đơn vị thông suốt, nâng cao hiệu quả công việc. Là sản phẩm và phương tiện của họat động giao tiếp, văn bản ngày càng đóng vai trò quan trọng không thể tách rời với mọi họat động giao tiếp của xã hội con người. Đặc biệt trong hoạt động quản lý nhà nước, trong giao dịch giữa các cơ quan tổ chức, đơn vị với nhau, giữa các cơ quan tổ chức với cá nhân, giữa cá nhân với cá nhân . và với các mối quan hệ ngoài nước. Vì văn bản là phương tiện thông tin cơ bản, là sợi dây liên lạc chính. Đối với chính quyền nhà nước văn bản là yếu tố quan trọng để kiến tạo thể chế của nền hành chính nhà nước. Thực tiễn cho thấy, tất cả các cơ quan, tổ chức đơn vị, cá nhân không thể không sử dụng văn bản trong các họat động giao dịch, điều hành tổ chức với một khối lượng lớn. Trong công tác quản lý nhà nước văn bản là phương tiện quan trọng để ghi lại và truyền đạt các các quyết định qủan lý, là hình thức để cụ thể hóa pháp luật, là phương tiện để điều chỉnh những quan hệ xã hội thuộc phạm vi quản lý nhà nước . Thực tế trong những năm qua công tác soạn thảo văn bản đã góp phần tích cực đáp ứng được các yêu cầu quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội . Đặc biệt năm 1996 Quốc hội khóa IX đã thông qua và ban hành “Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật” và “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002”, công tác sọan thảo văn bản ngày càng được đưa vào nề nếp, khắc phục được nhiều nhược điểm và những hạn chế trước đây. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều văn bản quản lý nhà nước, ở các cơ quan đơn vị và các doanh nghiệp vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết như: văn bản trái thẩm quyền, nội dung văn bản trái pháp luật, văn bản trình bày sai thể thức, thủ tục ban hành nghiêm trọng hơn nữa là người soạn thảo văn bản thiếu vốn kiến thức ngôn ngữ phổ thông. Không sử dụng đúng tiếng Việt, không nắm vững các yêu cầu về dùng từ, ngữ pháp và hành văn khi soạn thảo văn bản bằng tiếng Việt dẫn đến tình trạng văn bản soạn cẩu thả qua quýt, tối nghĩa và thiếu mạch lạc gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng khôn lường đối với muôn mặt của đời sống xã hội. Làm giảm uy tín và hiệu quả tác động của các cơ quan tổ chức đơn vị trong các hoạt động giao tiếp, điều hành và quản lý hành chính. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng không thể không nói đến năng lực và trình độ yếu kém về kỹ thuật soạn thảo văn bản, nghiệp vụ hành chính văn thư của một số cán bộ trong các cơ quan tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để đánh giá và tổ chức sử dụng các hệ thống văn bản quản lý Nhà nước đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với mỗi nhà nghiên cứu và trong việc quản lý Nhà nước. Xuất phát từ tầm quan trọng đó nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Các tiêu chuẩn cơ bản của việc định giá trị văn bản”. Vì thời gian hoàn thành có hạn cũng như vốn hiểu biết còn nông cạn và ít ỏi của mình, bài tiểu luận của tôi khó tránh khỏi những sai sót và khuyết điểm còn phải sửa đổi và bổ sung. Vì vậy tôi rất mong và trân trọng mọi ý kiến đóng góp của thầy để từ đó tôi có thể củng cố được vốn hiểu biết của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn. PHẦN KẾT LUẬN Bước sang thềm thế kỉ mới kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn. Trong khi nhận thức rõ những cơ hội chung trong đổi mới đối với Việt Nam do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức chung trong đổi mới mà Việt Nam phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không, Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức lớn đối với chế độ chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng và việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy cần phải hoàn thiện đánh giá và tổ chức sử dụng các hệ thống văn bản để nước ta hòa nhập với thế giới và đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống một cách hiệu quả nhất./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng Đánh giá và tổ chức sử dụng văn bản (TS Lê Kiếm Thanh); 2. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi , bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002;