Thạc Sĩ Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ trong quá trình thu bán sản phẩm vận tải hàn

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề cương sơ bộ :
    Mã LA : 012.LVQTKD1.Trạng Quỳnh.com

    CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ
    1.1.KHÁI NIỆM:

    Là toàn bộ tiến trình được thực hiện bởi tất cả các thành viên trong đơn vị,
    được thiết lập tại đơn vị nhằm đạt được một cách hợp lý các mục tiêu của
    kiểm soát là: doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, hoạt động phù hợp với
    luật định, các báo cáo tài chính chính xác và tin cậy được.
    Tiến trình ở đây được hiểu là một hệ thống các chính sách, các thủ tục, các
    hành động nền tảng cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
    Hệ thống kiểm soát nội bộ không phải là một hệ thống kỹ thuật đơn thuần,
    hay nó cũng không phải chỉ thuộc về các nhà quản lý mà kiểm soát nội bộ
    phải là một hệ thống nhằm huy động mọi thành viên trong đơn vị cùng tham
    gia kiểm soát các hành động vì chính họ là nhân tố quyết định thành công
    chung của đơn vị.
    1.2.MỤC TIÊU CỦA KIỂM SOÁT NỘI BỘ
    - Cung cấp thông tin đáng tin cậy: cung cấp các thông tin đầy đủ, trung
    thực, chính xác, kịp thời nhằm phục vụ hiệu quả cho việc điều hành hoạt
    động sản xuất kinh doanh.
    - Bảo vệ tài sản và sổ sách: mọi tài sản của doanh nghiệp kể cả sổ sách
    chứng từ kế toán phải được bảo vệ để tránh mất mát, thất thoát, tránh bị
    lạm dụng, hư hỏng.
    - Đẩy mạnh tính hiệu quả về mặt điều hành: ngăn ngừa mọi sự chồng chéo
    hoặc vượt quá thẩm quyền, ngăn ngừa và phát hiện mọi hành vi lãng phí,

    1.3. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
    Hệ thống Kiểm soát nội bộ trong đơn vị được cấu thành bởi 5 bộ phận, đó là:
    - Môi trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, thông tin
    truyền thông và giám sát
    1.3.1. Môi trường kiểm soát
    Sự kiểm soát hữu hiệu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức,
    thái độ của nhà quản lý trong đơn vị đối với vấn đề kiểm soát. Để đánh giá môi
    trường kiểm soát cần chú ý những yếu tố sau:
    1.3.1.1Quan điểm quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý
    Quan điểm quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý có ảnh hưởng
    rất lớn đến môi trường kiểm soát của tổ chức. Khi nhà quản lý quan tâm đúng
    mức đến kiểm soát nội bộ và có các biểu hiện đúng đắn thì nhân viên sẽ nỗ lực
    trong việc đạt được các mục tiêu của kiểm soát. No bao gồm những vấn đề cốt
    lõi như: khả năng nhận thức và giám sát rủi ro trong kinh doanh; nhận thức và
    thái độ đối với việc lập báo cáo tài chính hay áp dụng các phương pháp kế toán;
    sử dụng các kênh thông tin chính thức hay không chính thức. Nhận thức, quan
    điểm, đường lối quản trị cũng như tư cách nhà quản trị là những vấn đề trung
    tâm trong môi trường kiểm soát.
    1.3.1.2. Cơ cấu tổ chức
    Cơ cấu tổ chức trong đơn vị là phân cấp quyền hạn và trách nhiệm của
    những thành viên trong đơn vị. Một cơ cấu tổ chức hợp lý là điều kiện đảm bảo
    cho các thủ tục kiểm soát phát huy tác dụng. Ngược lại, một cơ cấu quá phức tạp
    hoặc không rõ ràng có thể nảy sinh nhiều vấn đề nghiêm trọng.
    Cơ cấu tổ chức cũng cần được thiết kế linh hoạt để có thể dễ dàng thay
    đổi thích ứng khi môi trường, điều kiện thay đổi.
    Trong xu hướng tòan cầu hóa hiện nay, cần xác lập một cơ cấu tổ chức
    linh hoạt đủ sức thích ứng với những điều kiện kinh doanh, môi trường họat
    động thường xuyên thay đổi mà không phải phá vỡ hoàn toàn cấu trúc hệ thống
    cũ.
    1.3.1.3. Phương pháp phân quyền
    Phương pháp phân quyền là cách thức người quản lý giao quyền cho cấp
    dưới một cách chính thức để giải quyết một số công việc trong phạm vi được
    phân công. Việc ủy quyền bằng văn bản cụ thể sẽ giúp công việc được tiến
    hành dễ dàng, trôi chảy hơn, các thủ tục kiểm soát sẽ phát huy tác dụng, tránh
    được sự lạm dụng hay nhập nhằng quyền hành. Ngược lại, nếu ủy quyền không
    rõ ràng sẽ phát sinh hiện tượng cùng một nhiệm vụ nhưng được thực hiện chồng
    chéo ở các bộ phận khác nhau hay thậm chí trong cùng bộ phận hay những công
    việc mà không có ai thực hiện. Do vậy, công việc sẽ ách tắc, thủ tục kiểm sóat
    vô hiệu và tiêu cực có điền kiện nảy sinh.
    1.3.1.4.Sự tham gia của Hội đồng quản trị và Ban Kiểm sóat
    Sự tham gia của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát sẽ làm cho môi
    trường kiểm soát tốt hơn do sự giám sát của nó đến hoạt động của nhà quản lý.
    Để phát huy tác dụng của Ban kiểm soát thì các thành viên ban kiểm soát
    thường không phải là viên chức hay thành viên trong công ty.
    Ban kiểm soát có trách nhiệm:
    - Giám sát cơ cấu hệ thống kiểm soát nội bộ
    - Kiểm tra độ tin cậy và tính toàn vẹn của thông tin tài chính và kinh doanh
    cùng những phương pháp để xác định, đánh giá, phân loại và trình bày
    các thông tin này.
    - Giám sát sự tuân thủ các luật định, các chính sách, kế hoạch, thủ tục và
    các quy định của đơn vị.
    1.3.1.5.Chính sách về nguồn nhân lực
    Bao gồm các vấn đề về chính sách tuyển dụng, đào tạo, khen thưởng, kỷ
    luật các chính sách này ảnh hưởng quyết định đến trình độ và phẩm chất của
    đội ngũ nhân viên của đơn vị vì nó tác dụng khuyến khích (hay làm suy giảm) cả
    về tinh thần và vật chất cho người lao động. Chính sách nhân sự đúng đắn, thích
    hợp góp phần tạo đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi, có năng lực, có đạo đức sẽ giúp
    giảm bớt những yếu kém của môi trường kiểm soát và các thủ tục kiểm sóat.
    Ngược lai, không thể có được một hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ với
    đội ngũ cán bộ nhân viên yếu kém về năng lực và đạo đức nghề nghiệp.
    CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG QUÁ TRÌNH THU BÁN SẢN PHẨM VẬN TẢI HÀNG KHÔNG TẠI TCT HKVN
    2.1. GIỚI THIỆU HỆ THỐNG THU BÁN SẢN PHẨM VẬN TẢI HÀNG
    KHÔNG
    2.1.1.Giới thiệu TCT HKVN
    Ngày 15/1/1956, Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
    đã ra nghị định số 666/TTg thành lập Cục hàng không Việt Nam. Đây là mốc
    lịch sử đánh dấu sự ra đời và phát triển của ngành hàng không dân dụng Việt
    Nam.
    Đến năm 1989, do yêu cầu của cải cách kinh tế, Tổng công ty Hàng
    không Việt Nam đã được thành lập trực thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng
    Việt Nam (QĐ số 225/CT - 22-8-1989) nhằm mục đích tách hoạt động quản lý
    và điều hành ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh. Tổng công ty Hàng không
    Việt Nam lúc đó là một đơn vị Hãng Nhà nước được tổ chức theo điều lệ liên
    hiệp xí nghiệp.
    Ngày 20/4/1993, Hãng Hàng không quốc gia (Vietnam Airlines) được
    thành lập trực thuộc Cục Hàng Không Dân Dụng Việt Nam.
    Năm 1995, Tổng công ty Hàng không Việt Nam được Chính phủ phê
    duyệt (Quyết định 328/TTg) là một trong những Tổng công ty có qui mô lớn
    nhất, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chịu trách nhiệm về
    toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn được Nhà nước giao, giữ vai
    trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tổng công ty Hàng không Việt Nam

    CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG QUÁ TRÌNH THU BÁN SẢN PHẨM VẬN TẢI HÀNG KHÔNG TẠI TCT HKVN
    3.1.HOÀN THIỆN BỘ MÁY TỔ CHỨC

    Các văn phòng chi nhánh tại các khu vực, đặc biệt là ở ngoài nước do
    chưa được phân cấp trách nhiệm quản lý một cách đầy đủ đã dẫn tới TCT không
    kiểm soát được quá trình quản lý thu bán của từng thị trường.
    Chỉ có những văn phòng chi nhánh mới có thể nắm bắt kịp thời tình hình
    diễn biến của thị trường, khả năng tài chính và thanh toán của các đại lý, từ đó
    mới có sự quản lý vừa thông thoáng nhưng lại vừa chặt chẽ. Sự phân cấp trong
    lĩnh vực này có những tác dụng rất lớn như:
    - Tạo điều kiện cho các văn phòng chi nhánh xác định rõ trách nhiệm và
    quyền hạn của mình trong công tác quản lý thu bán vé
    - Có các biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả hơn. Ví dụ: Do được phân
    cấp đầy đủ, cán bộ nghiệp vụ của các văn phòng có thể nhanh chóng phát
    hiện những đại lý trong khu vực mình quản lý có dấu hiệu bất ổn về tài
    chính, từ đó có những quyết định điều chỉnh như hạn chế lượng vé cấp,
    hạn chế khả năng đặt giữ chỗ của đại lý hoặc nâng cao mức đặt cọc; tăng
    tần suất thanh toán, .
    Tuy nhiên sự phân cấp ở đây không có nghĩa là sự khoán trắng cho các
    đơn vị cấp dưới mà các cơ quan quản lý cấp trên vẫn phải tăng cường sự quản lý
    nhưng ở những mức độ khác. Việc phân cấp cũng phải thực hiện thận trọng từng
    bước, phù hợp với điều kiện cụ thể và khả năng thực hiện của các văn phòng chi
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...