Luận Văn Các giải pháp huy động vốn đổi mới máy móc thiết bị công nghệ ở công ty may chiến thắng

Thảo luận trong 'Công Nghệ Thông Tin' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ Ở CÔNG TY MAY CHIẾN THẮNG
    CHƯƠNG III

    CÁC GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐỔI MỚI MÁY MÓC THIẾT BỊ CÔNG NGHỆ Ở CÔNG TY MAY CHIẾN THẮNG
    Trong nền kinh tế thị trường, yêu cầu đổi mới TSCĐ nói chung đổi mới máy móc thiết bị công nghệ nói riêng được hầu hết các doanh nghiệp quan tâm và công ty May Chiến Thắng cũng không nằm ngoài số đó. Nói chung, máy móc thiết bị của công ty phần lớn đã lạc hậu và cần được đổi mới đồng bộ. Nhu cầu vốn cho đầu tư đổi mới trong tương lai ở công ty là rất lớn trong khi khả năng huy động vốn hiện nay còn hạn hẹp. Trước mắt để phù hợp với khả năng huy động vốn chưa đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư đồng bộ máy móc thiết bị, công ty nên tiến hành đầu tư có trọng điểm ( như phương án 1 được trình bày ở phần trên). Công ty có thể sử dụng các biện pháp huy động vốn trước mắt để đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới có trọng điểm này.
    3.1 CÁC GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI ( 3-5 NĂM )
    Để huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ trong thời gian tới, công ty có thể áp dụng nhiều giải pháp trước mắt khác nhau . Các giải pháp này phải đạt được mụch đích: số vốn huy động phải đủ với nhu cầu sử dụng trong thời gian thực hiện đầu tư, kịp thời với quá trình đầu tư và chi phí huy động vốn có thể chấp nhận được. Cụ thể, công ty có thể huy động từ các nguồn sau
    3.1.1 Huy động vốn từ nguồn bên trong công ty
    Nguồn vốn huy động từ bên trong công ty luôn đóng vai trò quyết định, đây là nguồn vốn phải được quan tâm trước tiên khi công ty có nhu cầu huy động vốn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. Nguồn vốn này bao gồm: Nguồn khấu hao cơ bản, nguồn lợi nhuận để lại tại quỹ đầu tư phát triển.
    3.1.1.1 Nguồn khấu hao cơ bản.
    Như đã trình bày ở phần lí luận chung, TSCĐ của công ty khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ không tránh khỏi hao mòn( bao gồm cả hao mòn hữu hình và vô hình), giá trị hao mòn đó được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm và gọi là khấu hao TSCĐ, sản phẩm được sản xuất ra sau khi tiêu thụ thì số khấu hao TSCĐ trên được giữ lại và tập trung vào một quỹ. Quỹ này được sử dụng nhằm mục đích tái sản xuất giản đơn TSCĐ và được gọi là quỹ khấu hao cơ bản. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới hiện đại hóa TSCĐ thì quỹ khấu hao cơ bản có thể được sử dụng linh hoạt như một nguồn để tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
    Theo quy định của Nhà nước, kể từ năm 1994 toàn bộ số tiền khấu hao cơ bản được để lại tại công ty, công ty có toàn quyền quản lý và sử dụng quỹ khấu hao. Quy định này đã có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới tài sản.
    Dựa trên bảng Cân đối kế toán tại công ty May Chiến Thắng vào 31/12/1999 ta thấy:
    Tổng nguyên giá TSCĐ: 46.681.811.116 Đ trong đó
    ãTSCĐ hình thành từ nguồn vốn NSNN: 10.261.143.504 Đ
    ãTSCĐ hình thành từ nguồn vốn tự bổ sung:13.266.888.695 Đ
    ãTSCĐ hình thành từ nguồn vốn vay:23.153.778.917 Đ
    Trong việc tính và trích khấu hao TSCĐ công ty thực hiện tính khấu hao theo tỷ lệ khấu hao bình quân chung cho nhóm TSCĐ( tỷ lệ này công ty đã đăng ký với cơ quan quản lý cấp trên) cụ thể như sau: (Bảng 6)
    Với mức trích thực tế như trên nên trong năm 1999 toàn bộ số tiền khấu hao trích trong năm được thể hiện qua bảng sau: (Bảng 7)
    Với mức trích khấu hao như ở bảng trên thì số tiền khấu hao TSCĐ trích trong năm 1999 sẽ được sử dụng trong năm 2000 như sau:
    Tổng mức trích trong năm: 3.140.693.173 Đ
    ãSử dụng để tái đầu tư TSCĐ: 1.582.936.230 Đ
    ãSử dụng để trả nợ vay: 1.557.756.942 Đ
    Toàn bộ số tiền 1.582.936.230 Đ (chiếm 11,72% nhu cầu vốn cần huy động) công ty có thể dành cho dự án đổi mới thiết bị công nghệ trong thời gian tới. Bên cạnh đó trong những năm tới công ty lên tăng tỷ lệ khấu hao bình quân chung lên tới mức trích tối đa nhằm mục đích khấu hao nhanh các TSCĐ đang sử dụng, như vậy vừa giảm được hao mòn vô hình vừa tăng thêm được số khấu hao cơ bản phục vụ cho đổi mới thiết bị công nghệ. Nếu trong năm 2000, công ty thực hiện trích khấu hao TSCĐ với tỷ lệ tối đa thì có thể huy động được thêm một khoản vốn nữa đáp ứng cho nhu cầu đổi mới TSCĐ mà trọng tâm là thiết bị công nghệ (Cụ thể như ở bảng 8)
    Như vậy, nếu trong năm 2000 công ty thực hiện trích khấu hao theo tỷ lệ tối đa thì số tiền khấu hao cơ bản sẽ vào khoảng 3.801.385.100 Đ trong đó công ty có thể sử dụng 1.982.071.706 Đ dành cho dự án đầu tư đổi mới máy móc thiết bị tức là đạt khoảng 14,68% nhu cầu vốn cần thiết cho công việc này (nhu cầu vốn là 13,5 tỷ Đ). Tuy nhiên, công ty cần cân nhắc nếu trong năm 2000 việc áp dụng tỷ lệ khấu hao bình quân ở mức tối đa có ảnh hưởng lớn tới giá thành sản phẩm, tới doanh thu và lợi nhuận, nếu sự tác động này ở mức có thể chấp nhận được thì đây là một giải pháp rất có triển vọng để tăng khả năng huy động vốn tại công ty trong thời gian tới.
    Về phần TSCĐ, công ty cũng cần lưu ý tới việc xử lý các TSCĐ hư hỏng đá khấu hao hết ở các năm trước và hiện vẫn còn sử dụng. Theo tính toán tại công ty số lượng TSCĐ này có giá trị khoảng 2.949.756.248 Đ. Công ty nên có biện pháp xử lý nhanh các tài sản này để bổ sung thêm vốn cho việc đổi mới thiết bị sản xuất. Thông thường, số tiền thu được với các tài sản được thanh lý này chỉ vào khoảng 10% nguyên giá TSCĐ, thậm chí còn dưới 10% nguyên giá TSCĐ. Nếu xử lý được số TSCĐ này sẽ giúp công ty thu hồi được vốn, giải phóng được mặt bằng sản xuất, đỡ tốn các chi phí bảo quản tài sản, đồng thời bổ sung thêm một khoản vốn khoảng 249.975.625 Đ ( nếu giá thanh lý bằng 10% nguyên giá tài sản) cho việc đầu tư đổi mới tài sản.
    Như vậy, từ nguồn khấu hao cơ bản và thanh lý nhượng bán các TSCĐ trong năm 2000 công ty có thể huy động được khoảng 3.814.983.561 Đ (chiếm 28.25% tổng nhu cầu vốn cần huy động.
    3.1.1.2 Nguồn lợi nhuận để lại tại quỹ đầu tư phát triển
    Lợi nhuận để lại là phần lợi nhuận thực hiện của công ty sau khi đã thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng vốn, nộp các khoản tiền phạt, Đây là một nguồn vốn quan trọng được huy động nhằm đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng những thành tựu kỹ thuật mới vào hoạt động sản xuất. Theo quy định hiện hành, các DNNN phải trích lập tối thiểu 50% lợi nhuận để lại để trích lập quỹ đầu tư phát triển. Quỹ đầu tư phát triển sau khi được trích lập sẽ được sử dụng để đầu tư đổi mới nhà xưởng, máy móc, thiết bị, của công ty. Việc trích lập, sử dụng và quản lý quỹ đầu tư phát triển do các doanh nghiệp tự tiến hành và phải đảm bảo thực hiện được mục đích khi hình thành quỹ.
    Theo số liệu trên bảng cân đối kế toán của công ty May Chiến Thắng vào 31/12/1999 số dư tại quỹ đầu tư phát triển còn lại là 70.947.969 Đ. Trong năm 1998, công ty thực hiện việc trích lập quỹ đầu tư phát triển với tỷ lệ là 50% lợi nhuận để lại. Theo em, với nhu cầu vốn cấp bách trong thời gian tới và số dư hiện tại ở quỹ đầu tư phát triển rất thấp trong năm 1999 và các năm tới công ty nên trích lập với tỷ lệ tối thiểu là 70% lợi nhuận để lại. Tất nhiên, việc tăng tỷ lệ trích lập quỹ đầu tư phát triển sẽ ảnh hưởng tới việc trích lập một số quỹ khác tại công ty như quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, . và tác động tới quyền lợi của cán bộ công nhân viên trong công ty ở thời điểm trước mắt. Do đó, ban lãnh đạo công ty cần có các biện pháp tuyên truyền phân tích cho CB-CNV thấy được nhu cầu vốn cần huy động trong thời gian tới của công ty để đổi mới thiết bị công nghệ, nếu không đổi mới sẽ ảnh hưởng lớn tới hoạt động của công ty trong tương lai và để CB-CNV có thể chấp nhận được những thiệt thòi trước mắt.

    Với lợi nhuận sau thuế ước tính đạt được trong năm 1999 là 1.012.403.849 Đ với tỷ lệ trích lập quỹ đầu tư phát triển là 70% thì công ty có khả năng huy động được số tiền khoảng 708.000.000 Đ và như vậy công ty có thể sử dụng quỹ đầu tư phát triển với số tiền khoảng 780.000.000 Đ ( tức là 5.8% số vốn cần huy động)
    Ngoài ra trong qúa trình đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ trong thời gian tới nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình đầu tư thường xuyên biến động, tăng giảm ở các thời điểm khác nhau. Công ty có thể thực hiện điều chỉnh linh hoạt số vốn bổ sung cho quá trình đầu tư từ một số quỹ khác trong công ty như : quỹ dự phòng tài chính và quỹ dự phòng mất việc làm( theo số liệu tại thuyết minh báo cáo tài chính đến thời điểm 31/12/1999 số dư hai quỹ này là 21.284.391 Đ cùng với mức trích lập năm 1999 khoảng 100.000.000 Đ, tổng cộng khoảng 120.000.000 Đ ) Tuy nhiên, trong qúa trình sử dụng hai quỹ này phải tuyệt đối tôn trọng nguyên tắc hoàn quỹ ngay khi có thể.

    Tóm lại, tổng cộng hai nguồn vốn khấu hao cơ bản và lợi nhuận để lại tại quỹ đầu tư phát triển công ty có thể đáp ứng cho nhu cầu vốn đổi mới máy móc thiết bị với số vốn khoảng 4.594.983.561 Đ ( tức là 34.05% số vốn cần huy động). Nguồn vốn bên trong luôn giữ vai trò quan trọng trong viêc huy động cũng như sử dụng vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ. Việc huy động và sử dụng nguồn vốn này có nhiều ưu điểm hơn so với sử dụng vốn vay nhưng hạn chế lớn nhất trong huy động và sử dụng nguồn vốn này là quy mô thường nhỏ, không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Vì vậy, bên cạnh việc huy động nguồn vốn bên trong, huy động nguồn vốn bên ngoài là cần thiết trong công tác huy động vốn, điều này đặc biệt có ý nghĩa khi hoạt động đầu tư đòi hỏi một lượng vốn lớn.



     
Đang tải...