Tài liệu Các đô thị lớn của nước ta về hồi hai thế lỷ 17 - 18

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CÁC ĐÔ THỊ LỚN CỦA NƯỚC TA VỀ HỒI HAI THẾ LỶ 17 - 18


    Các nhà buôn và các giáo sĩ Tây phương vào nước ta trước hết đều để chân đến các kinh đô, các thị trấn và hải cảng lớn ở phía Bắc hoặc ở phía Nam. Các giáo sĩ lưu lại để truyền giáo, và các nhà buôn ngoại quốc mở cửa hàng cũng đều ở các đô thị lớn. Cho đến các nhà ngoại giao, các sứ thần đi giao thiệp về các việc trọng đại, cũng phải đến các kinh đô, nơi vua chúa lập triều đình và đặt các cơ quan chính trị và hành chính. Vì thế mà các thị trấn lớn được người ngoại quốc để ý và nói đến rất nhiều. Các di tích của họ để lại ở xứ ta cũng đều tụ tập ở các nơi đó cả. Nay mỗi khi ta đọc lại những tập ký sự của các nhà đi bể và các giáo sĩ đến nước ta trước tiên, không những ta có thể biết được nhiều điều mà các chính sử không hề chép, mà lại còn được trông thấy những cảnh tượng lạ mắt về các đô thành cổ, và về cách sinh hoạt của ông cha ta thưở trước. Những cuốn ký sự đó thực là những tài liệu quý giá cho cuốn “Việt Nam xã hội và Văn hóa sử” sau này.

    Chúng tôi muốn đem phô diễn trước mắt các độc giả những cảnh Hà Nội, Phố Hiến, Huế, Cửa Hàn, Faifo, Quy Nhơn cổ theo các quan sát của các nhà buôn và giáo sĩ ngoại quốc, là vì các nơi đó rất có quan hệ đến lịch sử nước ta và lịch sử việc truyền đạo Thiên Chúa ở xứ này.

    Trong cuốn “Description du royaume de Tonkin” của Samuel Baron do H.Deseille dịch tiếng Anh ra và xuất bản ở nhà in Viễn Đông Hà Nội, có tả rõ về kinh đô Kẻ Chợ của xứ Bắc kỳ hồi đó, Samuel Baron là một nhà buôn Anh do Công ty Ấn Độ ở Bantam phái sang mở hiệu buôn ở Hà Nội cùng phố Hiến vào năm 1681 đã viết:

    “Thành phố Ca-cho (Kẻ Chợ, Hà Nội) là thủ đô xứ Bắc kỳ. Thành phố đó ở vào bắc vỹ tuyến 21 độ và cách bể độ 40 dặm. Về diện tích thành phố đó có thể so sánh với nhiều thị trấn khác ở Á châu: còn về dân số thì thành phố đó còn đông hơn nhiều nơi, nhất là trong hai ngày mồng một và rằm mỗi tháng là các ngày phiên chợ, dân các làng lân cận đem các hàng hóa kéo về đó đông không thể tưởng tượng được. Có nhiều phố rộng rãi, quang đãng vào những ngày đó thì đặc những người, đến nỗi lách đường đi qua đám đông được độ trăm bước trong nửa giờ là một sự rất may mắn. Tất cả các đồ đạc bán trong thành phố, mỗi thứ bán ở một phố riêng, và các phố đó còn chia làm một hai hoặc nhiều khu là nơi chỉ người ở trong khu mới có thể mở cửa hàng được, chẳng khác gì các hội và các nghiệp đoàn trong các thành phố Âu châu vậy.

    Triều đình của vua, của các ông Hoàng, và của đại tướng và các tòa án tối cao, đều lập ở đây. Tôi chỉ có thể nói các triều đình đó chiếm những khu đất rộng, các dinh thự bề ngoài trông rất xoàng vì đều xây bằng gỗ. Các nhà ở khác đều làm bằng tre và những tấm phên đan rất vụng. Rất ít nhà cửa xây bằng gạch, trừ các cửa hàng của người ngoại quốc là những ngôi nhà rực rỡ hơn hết.

    Khi đứng trước ba lớp thành và lâu đài cổ, người ta phải lấy làm ngạc nhiên, những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy ây vững vàng có những cửa lớn và đẹp lát bằng một thứ cẩm thạch; lâu đài cổ chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại cũng đủ biết lâu đài đó trước kia rất đẹp đẽ, lộng lẫy. Trong khu thành đó, lại có những trại của một quân đội lớn lúc nào cũng dự bị sẵn sàng, và kho chứa binh khí của nhà vua ở trên bờ sông gần một bãi cát mới bồi”.

    Các người Âu châu đã qua thăm Kẻ Chợ về hồi thế kỷ 17, cũng có người để ý đến các thành trì và lâu đài cổ mà Baron đã nói trên nầy; nhưng không mấy ai tìm thấy di tích. Ngay đến các sách địa dư cổ của các tiền triều cũng nói về thành trì và cung điện ở Hà Nội tức Đông Kinh, Đông Đô tức Long Biên và Thăng Long thưở xưa, nhưng không được rõ ràng. Cuốn “Hà
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...