Đồ Án các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ - đặc biệt là hoạt động trên thị trường mở của Ngân hàn

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lời nói đầu
    Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô có tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến toàn bộ đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua chính sách này, Ngân hàng trung ương, Chính phủ chính sách thể đưa ra các biện pháp nhằm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và cải thiện tình trạng công ăn việc làm. Để chính sách tiền tệ phát huy một cách tối đa hiệu quả của nói, việc sử dụng các công cụ của chính sách này hợp lý trong từng giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển kinh tế xã hội giữ vai trò chủ chốt.
    Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bài đề án môn học, em chỉ xin đề cấp một vài nét về các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ - đặc biệt là hoạt động trên thị trường mở của Ngân hàng Trung ương. Vì vậy trong quá trình trình bày em mong được các thầy cô giáo cho những chỉ dẫn để em có thể hiểu sâu hơn về vấn đề này.
    Em xin chân thành cảm ơn!.

    Phần I: Giới thiệu chung

    I. Chính sách tiền tệ.
    Tiền tệ là một khái niệm dùng để chỉ những gì được chấp nhận làm môi giới trung gian trong trao đổi và là phương tiện thanh toán các khoản nợ. Từ khi ra đời cho đến nay, tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái khác nhau nhưng tựu chung lại chúng có cùng một bản chất. Đi kèm với quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ hoạt động tài chính ngân hàng cũng đã ra đời và phát triển không ngững và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của hoạt động tiền tệ. Ngày nay hệ thống ngân hàng và đặc biệt là Ngân hàng Trung ương thông qua một cơ chế điều chỉnh tiền tệ gọi là “ chính sách tiền tệ “ đã có khả năng kiểm soát được các vấn đề về tiền tệ. Các nhà kinh tế học cũng chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác về thế nào là chính sách tiền tệ, tuy nhiên chính sách tiền tệ cũng có thể được coi là những biện pháp mà Ngân hàng Trung ương, ngân hàng có quyền lực cao nhất trong toàn bộ hoạt động ngân hàng và tài chính, sử dụng để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng. Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ để thực hiện chức năng là Ngân hàng quốc gia và quản lý vĩ mô của mình.
    Chính sách tiền tệ là một hệ thống bao gồm các công cụ trực tiếp và gián tiếp nhằm tác động đến hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ đó là ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm đầy đủ. ở Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã có những bước tiến vô cùng quan trọng. Nói đến nền kinh tế thị trường tức là nói đến một hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ như thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường công nghệ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học kỹ thuật công nghệ . và đặc biệt là thị trường tài chính và tiền tệ, một thị trường có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ liên kết chặt chẽ các thị trường với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, bền vững. Ngân hàng Trung ương và hệ thống các ngân hàng sẽ tham gia vào việc đề ra những mục đích những biện pháp, những công cụ hữu hiệu nhất để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả. Tiền tệ và lưu thông tiền tệ được coi là những mạch máu của nền kinh tế, đó là một thứ dầu bôi trơn để bộ máy kinh tế hoạt động thật hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà chính sách tiền tệ là một chính sách đặc biệt quan trọng. Vậy những công cụ của chính sách tiền tệ là gì? Làm thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra?
    Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ những mục tiêu trung gian được coi là những nấc thang đưa dần dần tác động của Ngân hàng Trung ương thông quan hàng loạt các công cụ của chính sách này. Công cụ của chính sách tiền tệ được phân ra làm hai loại: Công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. Cả hai công cụ này đều có đặc điểm chung đó là có thể tác động đến mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ. Đó là lãi suất, đó là khối lượng tiền cung ứng, đó là khối lượng dự trữ bắt buộc đó là lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng tất cả các mục tiêu đó đều được lựa chọn vì chúng có ưu điểm là có thể đo lượng được, có thể kiểm soát được và quan trọng hơn đó là chúng đều có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Hệ thống mục tiêu này bao gồm nhiều chỉ tiêu khác nhau. Vì vậy để đạt được nó cần có những công cụ hỗ trợ đắc lực và hiệu quả. Trong từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế có thể các mục tiêu này sẽ tạm thời thay thế cho nhau. Vì vậy việc linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp nhất với các mục tiêu là vô cùng quan trọng và Ngân hàng Trung ương sẽ là người ra quyết định cuối cùng đối với các công cụ này. Hiện nay, công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ đó là: Hạn mức tín dụng, nghiệp vụ lãi chiết khấu, dự trữ bắt buộc và hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên thị trường tự do này còn gọi là nghiệp vụ thị trường mở. Trong điều kiện thế giới khi nền kinh tế thị trường đã phát triển đa số các nước tiên tiến thường sử dụng các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự phát triển của hệ thống thị trường chưa được đầy đủ và hoàn thiện vì vậy việc sử dụng các công cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn về khách quan cũng như chủ quan đặc biệt là trong giai đoạn giao thời như hiện nay.
    II. Công cụ của chính sách tiền tệ
    1. Công cụ trực tiếp – Hạn mức tín dụng
    Công cụ của chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi Ngân hàng Trung ương nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất. Hạn mức tín dụng là một loại công cụ trực tiếp đó là lãi suất dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương bắt buộc các tổ chư chính sách tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông với công cụ này Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được khối lượng tiền trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ, khi đó các công cụ gián tiếp chưa có điều kiện để áp dụng. Trong trường hợp khẩn cấp với sức ép lạm phát tăng cao, lượng tiền cung ứng cần được khống chế trực tiếp và ngay lập tức, Ngân hàng Trung ương kiểm soát tất cả các khoản cho vay lớn của các ngân hàng trung gian, hạn chế cho vay tiêu dùng, cho vay trả chậm, cho vay cầm cố . Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ là một giải pháp mang tính chất đối phó tình thế trước những biến động trước mắt. Hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi tính chất hành chính và thiếu linh hoạt của nó. Bên cạnh đó việc qui định hạn mức tín dụng đối với từng loại Ngân hàng trung gian là không giống nhau, điều này tuỳ thuộc vào định hướng phát triển và mục tiêu điều hành của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ vì vậy đôi khi tác dụng của nó lại đi ngược lại với chiếu hướng của thị trường tín dụng làm cho mức lãi suất biến động bất lợi cho hoạt động kinh tế, giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian và các tổ chức tín dụng trong thị trường.
    Với những hạn chế như vậy, Hạn mức tín dụng chỉ được các Ngân hàng Trung ương sử dụng khi chưa có điều kiện để sử dụng các công cụ khác như các công cụ gián tiếp. ở Việt Nam hệ thống thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển vai trò của các Ngân hàng Trung ương vẫn còn bị hạn chế, mặt khác việc tự do hoá tài chính tiền tệ luôn luôn vấp phải sự can thiệp và điều tiết của Chỉnh phủ. Vì vậy hạn mức tín dụng đã từng là công cụ điều tiết có hiệu quả của Ngân hàng Trung ương trong thời kỳ lạm phát. Trong điều kiện phát triển hiện nay, công cụ này ngày càng tỏ rõ những mặt yếu kém do mức tín dụng được Ngân hàng Trung ương đưa ra là không có căn cứ và sự lỏng lẻo trong công tác quản lý hạn mức này. Do đó, công cụ trực tiếp sẽ dần dần được thay thế bằng các công cụ gián tiếp để chính sách tiền tệ được thực thi một cách có hiệu quả.
    2. Công cụ gián tiếp.
    a. Dự trữ bắt buộc.
    Như chúng ta đã biết, hoạt động tài chính ngân hàng là một hoạt động vô cùng cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển như ngày nay. An toàn trong kinh doanh tiền tệ sẽ bảo đảm cho hoạt động này được thông suốt. Để đảm bảo cho khả năng thanh khoản bảo đảm cho những rủi ro bất thường trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ương đã qui định bắt buộc với toàn bộ ngân hàng trung gian một khoản dự trữ gọi là dự trữ bắt buộc dưới dạng tiền gửi hoặc tiền mặt ở Ngân hàng Trung ương. Mỗi ngân hàng trung gian sẽ mở một tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, điều này có thể giúp cho việc thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau giữa ngân hàng trung gian và Ngân hàng Trung ương, việc chi trả các khoản phí giao dịch . Dự trữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đây là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng sodư^' tiền các loại tại một thời gian nào đó. Dự trữ bắt buộc được sử dụng lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1913, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài vào những năm 30, nó dần dần được sử dụng phổ biến ở những nước khác và lúc này Ngân hàng Trung ương đã nhận ra rằng dự trữ bắt buộc không chỉ có thể đảm bảo khả năng thanh toán và an toàn cho các ngân hàng trung gian mà nó còn có thể là công cụ để điều tiết trong nền kinh tế. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Ngân hàng Trung ương có thể tác động vào nguồn dự trữ, vốn khả dụng của các ngân hàng và do vậy nó sẽ làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
    Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ 20, nhưng ở nhiệm vụ mới chỉ bắt đầu làm quen với khái niệm này vào năm 1990. Tháng 51990/, sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng được ban hành thì các ngân hàng bắt đầu thực hiện qui chế dự trữ bắt buộc. Theo Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tính trên số dư tiền gửi của các tổ chức, các cá nhân ở các ngân hàng, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau mà tỷ lệ này sẽ được qui định khác nhau trong phạm vi từ 10 – 35%. Trong giới hạn này dự trữ bắt buộc không được trả lãi, còn nếu vì một lý do nào đó và nhằm một mục đích nhất định, thống đốc Ngân hàng nhà nước có thể ra quyết định nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên cao hơn 35%, phần chênh lệch lớn hơn 35% sẽ được ngân hàng nhà nước trả lãi. Trên thực tế tỷ lệ này thường là 10%, tuy nhiên việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng khác nhau trong từng thời kỳ và với từng loại tiền gửi khác nhau. Ví dụ như từ tháng 51990/ đến tháng 31994/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% cho tất cả các loại tiền gửi nhưng theo Quyết định 261 – QĐNH1/ ngày 1909/1995/, tỷ lệ 10% chỉ áp dụng cho loại tiền gửi 12 tháng trở xuống. Giữa 2 thời kỳ này từ tháng 51994/ đến tháng 91995/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự phân biệt cho 2 loại tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở xuống và tiền gửi không kỳ hạn (1). Hay giả như năm 1999 là năm vô cùng khó khăn đối với nền kinh tế nước ta, mặc dù sau 1cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á ( từ năm 1997) các nước này đã có những dấu hiệu hồi phục nhanh chóng, nhưng Việt Nam lại rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái. Để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu tạo đà phát triển kinh tế, ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...