Tài liệu Bùi Hữu Nghĩa

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Bùi Hữu Nghĩa



    Phần I ,
    Bùi Hữu Nghĩa,</B>
    </B> </B>
    Trong buổi “chiều mưa gió nơi một vương triều.</B>

    Thủ Khoa Nghĩa là con người hiếu thảo, thương yêu vợ con; liêm chính, cương trực ở chốn quan trường. Đặc biệt ông luôn tha thiết với dân, với nước; bao giờ cũng rèn luyện & xem trọng hai chữ làm người
    </B>

    </I>I.Tóm tắt tiểu sử:

    Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh năm Đinh Mão 1807 (năm Gia Long thứ sáu) tại Rạch Bà Đồ, thôn Long Tuyền, phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh; nay thuộc phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ.Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm 1872 ( năm Tự Đức thứ 26), thọ 65 tuổi, an táng tại phần đất thuộc địa phận phường An Thới, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ hiện nay
    Ông là một thi sĩ có tài, được liệt vào một trong bốn con rồng vàng ở Đồng Nai qua lời truyền tụng trong dân gian :

    “Đồng Nai có bốn rồng vàng,
    Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn,Nghĩa thi”.
    </I>
    </I>
    ***
    Bùi Hữu Nghĩa (BHN)là con ông Bùi Hữu Vị, sinh sống bằng nghề chài lưới.Ngay thời nghèo khó, ông đã nổi tiếng hiếu học, có chí cao :
    “Chở cá giang hồ trăm chợ đủ,
    Ghe che phong nguyệt bốn mùa dư”
    (Hạ bạc)

    Thuở trai trẻ, ông được gia đình cho lên ở trọ nhà ông thủ hộ Nguyễn Văn Lý, làng Mỹ Chánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, Biên Hòa, thọ giáo với thầy Nguyễn Phạm Hàm, tục gọi là Đồ Hoành.
    Tháng 2 năm Ất Vị (1835) BHN đậu giải nguyên tại Trường thi Gia Định và được ông Lý tỏ ý gả con là Nguyễn Thị Tồn cho, nhưng ông xin khất lại chờ thưa qua cha mẹ. Một thời gian sau, BHN được bổ làm Tri huyện phủ Phước Long tỉnh Biên Hòa và chính thức kết hôn với Nguyễn Thị Tồn.
    II.Vụ án ở Láng Thé, Trà Vinh :</B>
    </B>
    Là một người áo vải xuất thân nhưng trọng liêm sỉ, BHN bước chân vào quan trường trong “buổi chiều mưa gió” của một vương triều rẽ chia, bất lực ; với ít nhiều hụt hẩng.Và ông đã sớm nhận ra số lớn quan viên chỉ là “lục lục thường tài</I> cũng một mòi”;</I> họ </I>luôn chực hờ thâu tóm lợi riêng, không mấy ai đáng mặt là rường cột của nước nhà:
    “Đành cột không nên rường chẳng hạp,
    Phải cơn nước lụt dấn thân bừa
    (Cây dừa)

    Hoặc:
    “Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
    Cao lớn làm chi bần hỡi bần!
    (Cây bần)


    Trong khi đó vận mệnh của cả dân tộc đang chơ vơ bên bờ vực:
    “ Non nước hãy còn đương bấy bá,
    Đất trời sao nỡ khiến lay vay.
    (Ngọa bịnh ngâm thơ)


    Giữa lúc đang ngán ngẫm, triều đình chuyển BHN về trấn nhậm phủ Trà Vang, một nơi rất xa kinh kỳ. Và chính những điều trái tai gai mắt ở đây đã đẩy gia đình ông vào bi kịch.
    Thuở ấy phủ Trà Vang (Trà Vinh) thuộc tỉnh Vĩnh Long, dưới quyền cai quản của Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện. Là một kẻ sĩ tự vượt khó lập thân, ông tỏ ra “dị ứng” với đám quan lại dốt nát, tha hóa nhưng leo cao nhờ thân thế, nhờ luồn cúi. Tệ hơn nữa là bọn họ chỉ lo gây bè kết phái, cấu kết nhau bày vẽ hòng sách nhiễu dân lành vốn đã thừa khốn khó trong buổi loạn ly
    Một lần do tánh cương trực,BHN đã cho lính đánh đòn một cậu công tử xấc xược với ông, vốn là em vợ Bố chánh Truyện và đã chuốc lấy mối hiềm thù
    Nhắc lại chuyện cũ thời còn các chúa Nguyễn, Trà Vang đã là một địa bàn cộng cư của cả người Kinh, người Hoa nhưng đông nhất là người Khơ-me Những lúc bôn tẩu vì quân Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Ánh được những người gốc Khơ-me ở đây giúp đỡ lương thực; lại có một số dân vào lính lập được công lao, nên khi thống nhất đất nước, vua Gia Long (Nguyễn Ánh ) nhớ ơn, xuống chiếu miễn thuế khai thác thủy sản cho vùng này.
    Vậy mà, vào năm 1848 có một số người gốc Hoa đã “phong bì” với những quan trên ở Vĩnh Long như Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện để “mua thầu” độc quyền khai thác cá tôm ở rạch Láng Thé, đẩy người dân Khơ-me vốn nghèo thêm lâm vào cảnh trắng tay.
    Lẽ ra đây chỉ là một vụ việc nhỏ, có thể giải quyết một cách ôn hòa, nhưng do cái tâm luôn hướng về dân nghèo và quá bất bình trước việc làm khuất lấp, thỏa thuận ngầm của các quan trên, nên khi các hương mục Khơ-me kéo đến khiếu kiện ở dinh môn, BHN đã có bút phê vào đơn một câu gây hậu quả hết sức nghiêm trọng:
    -“Việc tha thuế thủy lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ ban cho dân Thổ, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà dám đứng bán rạch ấy, thì có chém đầu nó cũng không sao!</B>”.</I>
    Đám dân nghèo gốc Khơ-me từ lâu bị dày xéo như giun dế, nghe lời phán xử, bèn hè nhau đến phá đập của những người gốc Hoa và hai bên xảy ra một cuộc xô xát đẫm máu làm thiệt mạng 8 người gốc Hoa.Thế là, bọn quan tỉnh đã sẵn mối hiềm khích từ trước nên nhân cơ hội này cho bắt một số người có liên quan và bắt luôn BHN tạm giam ở Vĩnh Long rồi giải về Gia Định, đệ sớ lên triều đình tố cáo ông đã kích động dân Khmer làm loạn, lạm phép giết người.
    Cho dù bị giá họa, bị đẩy vào ngõ cụt ; ông vẫn an nhiên với một tấm lòng “ uy vũ bất năng khuất”:
    “Mù mịt bởi mây che bóng nguyệt,
    Âm thầm vì trống lấp hơi còi”

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...