Tài liệu bt học kỳ môn tố tụng hình sự

Thảo luận trong 'Kinh Tế Vi Mô' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU
    Trong những năm gần đây cùng với xu thế hội nhập của thế giới, nền kinh tế đất nước ta ngày một phát triển. Nhưng bên cạnh đó, tệ nạn xã hội cũng gia tăng, tình hình tội phạm có những diễn biến ngày càng phức tạp. Cùng với quá trình phát triển đó, việc Đảng xác định mở rộng dân chủ và đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống là điều vô cùng cần thiết, trong đó những vấn đề liên quan đến người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào chữa được đặc biệt quan tâm. Việc xác định đúng đắn quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự sẽ góp phần rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động tố tụng hình sự và công cuộc cải cách tư pháp nói chung. Tìm hiểu đề tài “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự” sẽ giúp hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật cũng như địa vị pháp lý của họ trong giai đoạn hiện nay.











    NỘI DUNG
    I.Lý luận chung về người bào chữa
    1. Khái niệm người bào chữa.
    Theo từ điển giải thích luật học thì: người bào chữa là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng hơn thì người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự.
    Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng. Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
    2. Phân loại người bào chữa
    Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
    - Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
    - Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
    - Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, bào chữa viên nhân dân đều có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định chung cho người bào chữa.
    Trong những người nói trên thì luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp. Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 đã quy định một trong những hình thức giúp đỡ pháp lý chủ yếu của luật sư là tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta cũng cho thấy sự hiện diện của luật sư với tư cách là người bào chữa trong các vụ án hình sự ngày càng phổ biến.
    Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo cũng được pháp luật xác định là người bào chữa trong tố tụng. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời đến nay đã hơn 10 năm nhưng về phương diện pháp lý chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào giải thích rõ người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là ai. Trong Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi đề cập đến quyền kháng cáo đã hướng dẫn: “Đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên là bố mẹ hoặc người đỡ đầu của họ”. Nội dung trên đã gián tiếp làm rõ người đại diện hợp pháp nhưng chỉ là người đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên chứ không phải là người đại diện hợp pháp cho bị can, bị cáo nói chung như quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1991 đã khẳng định: “ Người thân thích của bị cáo không phải là người bào chữa, nhưng thực tiễn cho thấy có những vấn đề, có những tình tiết thuộc về vụ án, thuộc về nhân thân của bị cáo thì chỉ có những người thân thích mới thấu hiểu và nắm bắt được một cách tường tận và do đó họ có thể giúp cho Hội đồng xét xử cân nhắc việc xử lý được chính xác hơn, bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, người thân thích của bị cáo có quyền làm người bào chữa cho bị cáo”. Rõ ràng, nội dung hướng dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn có tính chất nội tại khi khẳng định người thân thích của bị cáo không phải là người bào chữa nhưng sau đó lại cho phép người thân thích của bị cáo có quyền tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa, hướng dẫn này cũng đã không làm rõ người thân thích của bị cáo là ai. Thực tiễn tố tụng hình sự những năm qua cũng cho thấy là chưa có trường hợp nào người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa. Đây là một thiếu sót lớn của pháp luật thực định cần sớm được khắc phục.
    Người bào chữa trong tố tụng hình sự còn có thể là Bào chữa viên nhân dân Tuy nhiên từ năm 1989 đến nay khi các Đoàn luật sư được khôi phục lại ở các địa phương thì các Đoàn Bào chữa đã chấm dứt hoạt động và giải thể, do đó chức danh Bào chữa viên nhân dân chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý.
    Thực trạng đó buộc chúng ta phải suy nghĩ khi nói đến nguyên tắc hiến định là đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Vấn đề đặt ra là cần phải mở rộng phạm vi những người có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn.
    II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành.
    1. Quyền của người bào chữa
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...