Tiểu Luận BP nâng cao hiệu quả thẩm mĩ giờ học TPVC ở THPT

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: BP nâng cao hiệu quả thẩm mĩ giờ học TPVC ở THPT

    MỞ ĐẦU
    1. LƯ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    1.1. “Văn học nằm ngoài định luật của băng hoại. Chỉ ḿnh nó không thừa nhận cái chết” (X.Sêđrin). Là một bộ môn nghệ thuật ngôn từ, đối tượng phản ánh của văn học là: “Toàn bộ hiện thực khách quan trong mối liên hệ sinh động với cuộc sống muôn màu của con người, được quy định bởi khả năng chiếm lĩnh thẩm mĩ h́nh thành trong quá tŕnh thực tiễn cuộc sống và nghệ thuật, là thế giới các giá trị thẩm mĩ của thực tại” [31,126]. Đó là một hoạt động nhận thức và sáng tạo thẩm mĩ dưới ánh sáng của lư tưởng thẩm mĩ, được chi phối bởi những xúc động nhiệt thành về lư tưởng thẩm mĩ, là sự nhận thức, khám phá, sáng tạo theo quy luật của Cái Đẹp.
    Cái thẩm mĩ là phương diện bản chất nhất của văn học nghệ thuật. Nó đem lại cho con người những rung động, xúc cảm mạnh mẽ tác động vào toàn bộ lư trí, t́nh cảm vừa có ư nghĩa cảm thụ vừa có ư nghĩa đánh giá theo quy luật của Cái Đẹp. Cái thẩm mĩ ở nhiều dạng cụ thể như: Đẹp - Xấu; Bi - Hài; Cao Cả - Thấp H̀n . Biểu hiện ở nhiều cung bậc: Xúc động thẩm mĩ, biểu tượng thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, t́nh cảm thẩm mĩ, lư tưởng thẩm mĩ, ư thức thẩm mĩ . Trong tác phẩm nghệ thuật h́nh tượng thẩm mĩ là đặc trưng bản chất nhất, thể hiện sức sáng tạo của người nghệ sĩ. Không có tất cả các phương diện kể trên th́ không thành các hoạt động văn học nghệ thuật.
    Có thể nói văn học không những t́m kiếm, phản ánh, sáng tạo Cái Đẹp mà c̣n rèn luyện, bồi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, nhận thức thẩm mĩ, năng lực sáng tạo thẩm mĩ. Môn Văn trong nhà trường vừa là một khoa học vừa là một bộ môn có tính nghệ thuật. Dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông không thể không quan tâm đến hiệu quả thẩm mĩ. Bởi dạy học tác phẩm văn chương nếu chỉ giảng dạy khô khan lạnh lùng không có mĩ cảm, không có rung động trái tim, không có niềm say mê trước Cái Đẹp, không bồi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ, t́nh cảm - lí tưởng thẩm mĩ, năng lực sáng tạo thẩm mĩ cho học sinh th́ không thể nói là đă hiểu văn và dạy văn.
    1.2. Những thập kỉ gần đây, các nhà giáo dục trong và ngoài nước luôn đặt vấn đề chú trọng phương diện giáo dục thẩm mĩ cho học sinh trong nhà trường: viện sĩ Mikhancov đă kêu lên rằng “Không thể giảm bớt việc dạy học văn trong nhà trường, như thế chỉ có nghĩa làm giảm nhẹ việc giáo dục nhân văn cho học sinh”, nhà thơ Môsiep ở Nga phản đối khuynh hướng “phi nhân văn hóa” . nhiều nhà giáo Việt Nam như cố giáo sư Nguyễn Đức Nam kêu gọi “Hăy trả lại bản chất ḱ diệu cho bộ môn văn trong nhà trường”, cố giáo sư Nguyễn Duy B́nh đặt lại vấn đề “Dạy văn dạy Cái Hay Cái Đẹp, nhà văn Chế Lan Viên mong muốn “Xanh hoá chương tŕnh”, nhà giáo ưu tú Đặng Hiển luôn trăn trở về “Sức hấp dẫn của giờ văn” để tạo nên sự hứng thú rung động thẩm mĩ nơi tâm hồn học sinh. Đặc biệt cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đă nhắc nhở “Dạy Cái Hay Cái Đẹp trong văn từ đó dạy bao nhiêu thứ nữa” Tuy nhiên xu hướng thấp kém sa sút về thẩm mĩ, t́nh trạng học sinh chán văn, quay lưng lại với môn văn trong các giờ văn trong nhà trường hiện nay vẫn đang là nỗi lo chung của toàn xă hội.
    1.3. Thời đại phát triển của khoa học kĩ thuật nhưng nhiều khi lại sản sinh ra những con người Ưch kỉ, đạo đức băng hoại “Tất cả những ǵ tạo nên bộ mặt hào nhoáng của nền văn minh phương Tây hiện nay đưa ra một mặt trái ngày càng đen tối” (Edgar Morin). Con người đang mê mải chinh phục không gian vô tận, nơi những thiên hà xa xôi mà quên mất sự quan tâm đến khoảng cách giữa người với người. Con người đang cố gắng làm sạch bầu không khí trong nỗ lực bảo vệ môi trường nhưng lại để tâm hồn bị ô nhiễm. Con người học cách kiếm sống nhưng không học cách làm nên cuộc sống. Con người cố t́m mọi cách để sống lâu, cộng thêm năm tháng vào đời sống nhưng không cộng thêm ư nghĩa cho đời sống Êy. Con người chạy theo nền văn minh vật chất mà quay lưng lại với những giá trị nhân văn cao đẹp đang là nỗi lo lắng không chỉ ở Phương Tây mà ngay cả ở các nước Phương Đông trong đó có Việt Nam - nơi chủ nghĩa nhân văn phát triển từ ngh́n đời nay cũng đang có những biểu hiện đi xuống. Sự xuống cấp về nhân văn và thẩm mĩ trong thanh thiếu niên, “nỗi lo giá lạnh tâm hồn”(Phan Trọng Luận), cảnh báo của M.Gorki đầu thế kỉ 20 cũng như lời kêu gọi của các nhà văn hóa lớn trong những năm gần đây về sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức, giá trị nhân văn của các tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay - “sự thông minh độc ác” đ̣i hỏi nhà trường phải thông qua môn Văn góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống văn hóa của xă hội, bồi dưỡng Cái Đẹp cho tâm hồn con người bởi “khoa học mà không có lương tâm th́ chỉ là sự huỷ hoại tâm hồn”.
    1.4. Công nghệ thông tin phát triển như vũ băo,văn hóa nghe nh́n gia tốc chóng mặt, bên cạnh lợi Ưch thiết thực c̣n kĐo theo hàng loạt những tác hại không nhỏ. Văn hóa nghe nh́n và các ngành nghệ thuật khác có nguy cơ lấn lướt văn học nói chung và văn học nhà trường nói riêng. Đặc biệt là tác động xấu của văn hoá phẩm đồi trụy và nhiều trào lưu thể hiện thứ thẩm mĩ thô lậu, rẻ tiền đă tác động đến lối dạy văn phi thẩm mĩ.
    1.5. Trong nhà trường phổ thông hiện nay các giờ văn đang chịu sự lấn át của các khuynh hướng bách khoa hàn lâm và chủ nghĩa nghiệp vụ. Khuynh hướng này bắt nguồn từ nhận thức không đúng về đặc trưng của môn Văn và phần nào do sức Đp của tư tưởng thực dụng trong dạy học thời cơ chế thị trường. Quan niệm về môn Văn trong nhà trường hiện nay chưa thống nhất: nhấn mạnh tính chất công cụ (thiên về rèn luyện kĩ năng kĩ xảo, cung cấp kiến thức công cụ, thiên về giáo dục chính trị đạo đức ), tính chất thẩm mĩ chưa được chú ư đúng mức. Chính v́ vậy mà các phương pháp giảng dạy văn học cũng có phần cứng nhắc, giản đơn, coi học sinh là trung tâm biến giờ văn thành những giờ học sinh trả lời phỏng vấn với những câu hỏi khô khan lạnh lùng, bẻ vụn bài văn, nhiều khi biến giờ văn thành những giờ “chia sẻ sự ngu dốt” đă đánh mất bản chất đích thực của giờ học tác phẩm văn chương. Do đó sức mạnh riêng của văn chương bị hạn chế khá nhiều trong việc h́nh thành và phát triển những t́nh cảm nhân văn thẩm mĩ cho học sinh. Chính v́ vậy, việc t́m ra những biện pháp nâng cao hiệu quả thẩm mĩ cho giờ học tác phẩm văn chương và áp dụng vào thực tiễn càng sớm càng tốt có ư nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao chất lượng dạy học văn nói chung và tăng cường hiệu quả giáo dục bản chất nhân văn thẩm mĩ cho tuổi trẻ học đường.
    Từ những lƯ do trên chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu là Biện pháp nâng cao hiệu quả thẩm mĩ giê học tác phẩm văn chương ở trung học phổ thông. Đây là vấn đề có ư nghĩa không chỉ ở phạm vi hẹp của phương pháp chuyên ngành mà c̣n có ư nghĩa xă hội; không chỉ có ư nghĩa ở Việt Nam mà c̣n có ư nghĩa trên phạm vi thế giới; vừa có ư nghĩa thời sự trước mắt vừa có ư nghĩa chiến lược lâu dài về giáo dục và phát triển con người (nhân văn thẩm mĩ), xây dựng một nền văn hoá lành mạnh cho toàn xă hội.
    2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
    Năm 1971, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có bài viết Dạy Văn là quá tŕnh rèn luyện toàn diện đă kêu gọi “Dạy văn là dạy Cái Hay Cái Đẹp thông qua đó dạy bao nhiêu thứ nữa ”[24]
    Cố GS Nguyễn Đức Nam năm 1982 đă có bài Hăy trả lại bản chất nghệ thuật ḱ diệu cho bộ môn Văn trong nhà trường nhấn mạnh “Ở trung tâm của bộ môn Văn phải là Cái Đẹp, cái thẩm mĩ, ở trong nghĩa đúng đắn và toàn diện của từ này. Chương tŕnh sách giáo khoa, phương pháp dạy học như thƠ nào đấy mà không làm nổi bật Cái Đẹp này, không tạo nên những rung động thẩm mĩ sâu sắc, không khiến người ta say mê th́ dạy học văn không thể là niềm vui lớn như Tố Hữu mong muốn . Bằng một quan niệm cơ bản đă thay đổi, bằng chương tŕnh và sách giáo khoa, bằng những phương pháp dạy và học thích hợp, phải trả về cho bộ môn văn sức mê hoặc của nghệ thuật”[76]. Đây là tư tưởng hoàn toàn đúng đắn có ư nghĩa là kim chỉ nam cho hoạt động dạy và học văn trong nhà trường chúng ta và cũng là cơ sở để tác giả luận văn mạnh dạn theo đuổi đề tài nhiều chông gai và vô cùng nhạy cảm này.
    Cố PGS Nguyễn Duy B́nh năm 1983 trong công tŕnh Dạy văn dạy Cái Hay, Cái Đẹp đă xác định rơ: “Môn văn c̣n là môn học có nhiệm vụ dẫn dắt HS tiếp xúc với những áng thơ văn bất hủ của dân tộc để qua đó rèn luyện cảm xúc, bồi dưỡng tâm hồn bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ, kích thích trong các em sù nhạy cảm, niềm say mê yêu quư Cái Đẹp. Môn văn có nhiệm vụ giúp cho HS t́m hiểu, tiếp xúc với những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, ư thức được ḍng máu thơm thiên cổ của mạch giống ṇi, cảm thấy tự hào tự tin, thấy trách nhiệm phải trân trọng, giữ ǵn, thừa kế và phát huy những di sản thiêng liêng quư báu Êy” [5,101]. Đây là công tŕnh quan trọng trong việc đặt vấn đề dạy đúng đặc trưng môn văn xác định dạy văn vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật từ đó chú ư đến biện chứng giữa nội dung và h́nh thức, chú trọng điểm sáng thẩm mĩ và mạch thẩm mĩ, coi trọng sự cảm thụ của học sinh Tuy nhiên công tŕnh ra đời cách đây đă hơn 20 năm, lại chủ yếu lập thuyết cho bộ môn văn nói chung chứ chưa đi vào từng biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả thẩm mĩ cho giờ học TPVC.
    Trần Thị Hoa Lê trong luận văn thạc sĩ năm 1990, cũng đă theo đuổi đề tài “Phương hướng khắc phục xă hội học dung tục trong dạy học tác phẩm văn chương” đă chỉ ra căn bệnh kinh niên trong hiểu văn dạy văn là dạy văn theo khuynh hướng xă hội học dung tục “các giờ văn hầu như không tạo điều kiện thuận lợi nhất cho HS thấy vẻ đẹp ḱ diệu và sức hấp dẫn độc đáo, sức mạnh đặc thù của văn chương qua nội dung giáo dục chính trị hoá văn chương” [56,35] và cũng đưa ra một số biện pháp khắc phục. Song đề tài này đi sâu vào khái niệm xă hội học dung tục chưa nh́n nhận vấn đềtrên nhiều b́nh diện, chưa đi sâu vào các BP nâng cao hiệu quả thẩm mĩ của giờ học TPVC. Vả lại đề tài cũng đă được triển khai cách đây gần hai mươi năm nên có nhiều điểm không c̣n phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp và t́nh h́nh dạy học văn hiện nay.
    Đỗ Xuân Hà, năm 1997, trong cuốn Giáo dục thẩm mĩ món nợ lớn đối với thế hệ trẻ có bài “Vị trí của văn học trong hệ thống giáo dục thẩm mĩ cho học sinh và khả năng giáo dục thẩm mĩ của môn Văn ở trường phổ thông”. đă cho rằng: “Môn văn cùng với các môn nghệ thuật khác có nhiều khả năng h́nh thành và phát triển ở trẻ những quan điểm, t́nh cảm, thị hiếu thẩm mĩ và năng lực sáng tạo nghệ thuật” [28,108]. Tác giả cũng đă đề xuất hai giải pháp để đưa môn Văn trở lại vị trí xứng đáng của nó trong hệ thống giáo dục thẩm mĩ. Thứ nhất là phải cải tiến chương tŕnh và sách giáo khoa: “Tác phẩm đưa vào chương tŕnh phải hay, phải làm cho người đọc rung động, giúp họ h́nh thành và phát triển các mặt của văn hoá thẩm mĩ” [28,113]. Đồng thời phải cải tiến phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông. “Giáo viên phải t́m mọi cách gây ở học sinh sự hứng thú đối với nghệ thuật ngôn từ, tạo ra ở các em nhu cầu thường xuyên được tiếp xúc với các tác phẩm văn chương hay, có chất lượng cao về tư tưởng nghệ thuật. Muốn vậy, phải tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc trực tiếp với những áng văn chương hay, phải dạy cho các em cách đọc, cách thưởng thức, cách suy ngẫm và đánh giá những điều đă học và từ những rung động thực sự trước nghệ thuật tài t́nh của nhà văn, nhà thơ, các em phải tự rót ra những điều bổ Ưch cho bản thân” [28,115]. Có thể nói đây là những giải pháp đúng đắn nhưng ở tầng vĩ mô chưa đi vào cụ thể hoá trong giờ học một tác phẩm văn chương cụ thể và cũng chưa bao quát hết quá tŕnh dạy học TPVC ở nhà trường phổ thông.
    TS. Vĩnh Quang Lê, trong cuốn Về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay, năm 1999 đă dành hẳn chương II để bàn về đặc trưng và vai tṛ của văn học trong giáo dục thẩm mĩ. Ở chương này, khi nghiên cứu sự tác động của văn học vào ư thức thẩm mĩ tác giả cho rằng:“Văn góp phần bồi dưỡng thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh cho người đọc nhờ những kinh nghiệm thẩm mĩ phong phú mà nó cung cấp cho họ” [55,89]. Và đồng thời tác giả cũng đề cập đến giải pháp bồi dưỡng năng lực thẩm mĩ cho con người là “phải phát triển hệ thống h́nh tượng của chủ thể cảm thụ, đánh giá và sáng tạo khi tiến hành “[55,89].
    PGS, TS. Ṿ Nho, trong tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 6 - 2000, có bài “Hoạt động giáo dục thẩm mĩ của giáo viên văn ở trung học cơ sở” cũng đă khẳng định: Môn văn có nhiều ưu thế hơn những môn học khác trong việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Trong giờ dạy học TPVC, tác giả lưu ư: “Khi cung cấp tri thức thẩm mĩ cũng là lúc giáo viên tiến hành việc h́nh thành ư thức thẩm mĩ cho học sinh, bước đầu định hướng h́nh thành quan điểm thẩm mĩ, t́nh cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ ” [81,13].
    PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hương năm 1991, trong bài Các điều kiện để nâng cao hiệu quả giờ dạy văn đă viết: “Người GV phải có nhiệm vụ sử dụng một cách tối ưu sức mạnh của TPVC để giáo dục và bồi dưỡng khả năng thẩm mĩ văn học cho HS” [46,92]. Tác giả đưa ra một số biện pháp như chọn đoạn trích hướng vào hứng thú HS, phân tích tác phẩm phải chú ư đến loại h́nh, loại thể phát triển các kĩ năng và bổ sung tri thức về tác phẩm, sử dụng hứng thó, nhu cầu tài năng của HS [46,95]. Ngoài ra ở bài viết Dạy văn là một nghệ thuật tác giả cũng đă phát biểu “Dạy văn là khám phá Cái Hay Cái Đẹp trong văn bản nghệ thuật nên trước hết nó phải là một nghệ thuật, nghệ thuật cảm thụ và phô diễn Cái Đẹp Dạy văn không chỉ cần đến kiến thức là đủ mà c̣n cần cảm xúc, t́nh cảm, sự rung động của con tim, cái xuất thần của tâm hồn, cần đến cái không khí văn, chất văn trong lớp học, trong mỗi cá nhân thầy và tṛ” [46,75]. Tư tưởng trên rất đúng đắn song trong phạm vi một bài báo nhỏ nên chưa bao quát được một đơn vị giờ học tác phẩm văn chương cụ thể. Trong bài “Phát triển năng lực giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xă hội cho học sinh trong việc học văn ở trường phổ thông trung học” đăng trên Tạp chí giáo dục số 1 - 4. 2001 đă khẳng định: “Các tác phẩm văn học sẽ góp phần h́nh thành cho các em khả năng nếm trải, ứng xử nghệ thuật, phát triển nhu cầu, thị hiếu, hứng thú thẩm mĩ cũng như khả năng đánh giá các tác phẩm nghệ thuật, các hiện tượng cuộc sống quanh họ và qua các giờ học văn, các tác phẩm văn sẽ h́nh thành cho các em những tư tưởng t́nh cảm và hành động phù hợp với yêu cầu xă hội đặt ra ”[46,198]. Tác giả cũng đă đưa ra một số giải pháp để tận dụng sức mạnh của văn học nghệ thuật trong giáo dục nhân cách học sinh. Tuy nhiên đây mới chỉ là những gợi ư ban đầu và ở phạm vi “phát triển khả năng giao tiếp thẩm mĩ và giao tiếp xă hội cho các em” [46,203].
    GS. Phan Trọng Luận trong nhiều công tŕnh như Rèn luyện tư duy qua giảng dạyvăn học(1969), Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường (1977) Cảm thụ và giảng dạy văn học(1983), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường phổ thông (1999), Phương pháp dạy học văn(2001), Xă hội, Văn học, Nhà trường(2002), Văn học, Giáo dục thế kỉ 21 (2002), Văn học nhà trường - Nhận diện, Tiếp cận, Đổi mới (2008) và nhiều bài báo đă nêu nhiều luận điểm khoa học về vấn đề liên quan giáo dục thẩm mĩ. Tiêu biểu là bài viết Cộng hưởng cảm xúc trong giảng văn đă thể hiện rơ quan điểm về hiệu quả thẩm mĩ của mét giờ văn:“Đọc văn hay học văn cũng sẽ mất hết ư nghĩa khi nội dung t́nh cảm thẩm mĩ của văn bản bị tước bỏ.”[65,227], “Hiệu quả một giờ giảng văn phải được tƯnh toán một cách cân đối, toàn diện trong sự phát triển con người HS về hiểu biết nhận thức, tư tưởng, kĩ năng Nhưng điều quan trọng là tất cả nội dung trên phải được chuyển hoá thành t́nh cảm nhất là t́nh cảm thẩm mĩ, là kết quả tổng hợp có tính đặc thù trong giờ giảng văn, là kết quả chuyển hoá từ thế giới tác phẩm sang thế giới tinh thần của bản thân chủ thể HS Nội dung giờ giảng không thể là những khái niệm khô khan, những hiểu biết thuần lí trí, những nhận thức lí trí. Giờ văn ngoài những yêu cầu về hiểu biết văn học, ngôn ngữ đời sống, kĩ năng thực hành phải tạo được những rung động sâu xa trong tâm hồn HS để rồi trên cơ sở đó sẽ được h́nh thành dần một cách vững chắc tự nhiên quan niệm đúng đắn về nhân sinh, về thế giới quan, về lí tưởng thẩm mĩ” [65,233]. Từ những quan niệm đúng đắn đó GS kêu gọi tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương, chú ư đến năng lực phát triển thẩm mĩ cho HS, coi HS là bạn đọc sáng tạo, đề ra nhiều biện pháp cảm thụ và giảng dạy văn học có tính khả thi cao. Tuy nhiên tất cả các công tŕnh đó mới trên cơ sở lập thuyết ở tầm vĩ mô và đưa ra các biện pháp giảng dạy văn học nói chung chứ chưa đi sâu vào vấn đề nâng cao hiệu quả thẩm mĩ cho giờ học TPVC một cách tỉ mỉ cụ thể. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của GS tác giả luận văn đi sâu vào nghiên cứu thực trạng dạy học TPVC hiện nay và mong muốn đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả thẩm mĩ cho giờ học TPVC.
     
Đang tải...