Luận Văn Bình đẳng giới ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp (125 trang)

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

    1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
    1.1.1. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
    Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ nữ so với nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó, cuộc đấu tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng đã rất lâu. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.

    Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới chỉ mới xuất hiện những năm gần đây. Khoa học về phụ nữ và giới chính là sản phẩm của phong trào đấu tranh của phụ nữ. Nó ra đời từ chính phong trào, thừa kế những di sản văn hoá, tinh thần tiến bộ của loài người và đến lượt mình nó lại tạo cơ sở lý lụân, làm phong phú thêm cho chính phong trào phụ nữ cũng như cho chính kho tàng kiến thức của nhân loại. Nó đã gây được ảnh hưởng lớn, thậm chí làm đảo lộn nhiều nhận thức và quan niệm của một số ngành khoa học. Ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ mới được hình thành từ những năm 80. Mặc dù là một ngành khoa học còn rất non trẻ nhưng nó đã trưởng thành nhanh chống, đạt được nhiếu thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ học và triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng về người phụ nữ ở Việt Nam cũng như vấn đề về bình đẳng nam nữ, góp phần quan trọng vào công việc quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước ta. Thời gian gần đây, vấn đề giới đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các cấp, các ngành và các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết về giới cũng như việc vận dụng lý thuyết giới vào thực tiễn đang tăng lên không chỉ ở những nơi triển khai các dự án về giới, xây dựng luận chứng, lập kế hoạch và soạn thảo chính sách kinh tế - xã hội liên quan tới giới mà còn cả những cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo về giới trên toàn quốc.

    Khái niệm giới, tuy mới được nói tới từ những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng bản chất vấn đề giới và nội dung các quan điểm về giới thực ra đã được nói đến từ lâu trong lịch sử thế giới mà chủ yếu liên quan tới vấn đề phụ nữ và sự bình đẳng nam - nữ. Mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ, sự giống nhau và khác nhau giữa hai giới, sự bình đẳng giữa hai giới là vấn đề có từ xưa, từ khi loài người bắt đầu xuất hiện trên trái đất. Tuy nhiên, cho đến ngày nay đó vẫn còn là vấn đề thời sự đang được bàn luận sôi nổi và nghiêm túc.
    1.1.1.1. Khái niệm giới

    Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi, liên quan chặt chẽ nhau. Trong đó tiếng Anh giới là GENDER và giới tính là SEX. Do đó, để hiểu khái niệm giới, trước hết cần hiểu khái niệm giới tính.
    Giới tính là một khaí niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang thai và sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai.

    Giới
    là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay qui định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất, tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội. Ví dụ: Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ thì phải làm hầu hết các công việc trong nhà như chăm sóc con, nấu ăn, phục vụ chồng Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nề nếp của gia đình, qui ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hoá.

    Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên qui định. Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian và thời gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền văn hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở chức năng sinh sản là làm cho phụ nữ mang thai. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá tạo nên. Địa vị thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi do sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách đây 50 năm về trước, đặc điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay không có sự thay đổi, thế nhưng đặc điểm về giới-tức là địa vị xã hội, tương quan về mặt xã hội so với nam giới-đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng tháng tám 1945, hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc.
    Từ những phân tích trên đây ta có khái niệm: giới là thuật ngữ dùng để chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, mối quan hệ này được quyết định và có thể thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh xã hội và văn hoá.

    1.1.1.2. Vai trò giới

    Vai trò giới là những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội mà xã hội mong đợi ở nữ giới và nam giới trong xã hội hay một nền văn hoá cụ thể. Đó là mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai làm gì, ai là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích.
    Vai trò giới được chia làm ba nhóm cơ bản: vai trò sản xuất; vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng.

    Vai trò sản xuất
    , thực hiện những hoạt động bao gồm sản xuất hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại như làm ruộng, đánh cá, thuê mướng hoặc tự sử dụng lao động. những hoạt động này được trả công và tạo ra thu nhập, cả nam và nữ có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất, nhưng nhìn chung các chức năng và trách nhiệm của họ cũng khác nhau do sự phân công lao động theo giới truyền thống. Những việc do phụ nữ làm thường được đánh giá thấp hơn nam giới.

    Vai trò tái sản xuất,
    là thực hiện các hoạt động tái sản xuất ra con người và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình như nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, chuẩn bị thức ăn, giữ gìn nhà cửa, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình những công việc này được gọi là công việc tái sản xuất là thiết yếu đối với đời sống con người, đảm bảo sự bền vững của dân số và lực lượng lao động. Công việc này tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy ít khi được coi là công việc thật sự, được làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa vào các con tính. Đại đa số, công việc tái sản xuất là trách nhiệm của phụ nữ và trẻ em gái.

    Vai trò cộng đồng
    , thực hiện những hoạt động bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ như hoà giải mâu thuẩn, các nghi lễ (đám tang, đám cuới, liên hoan, cúng đình ), các hoạt động thúc đẩy cộng đồng, các hoạt động chính trị ở địa phương Công việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hoá tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại được trả công và có thể nhìn thấy được như làm trưởng ban của một ban nào đó. Công việc này thường do nam giới nắm giữ.
    Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và chiếm khoản 50,6% lực lượng lao động xã hội [1].

    Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam có vai trò và những đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc phát triển của đất nước, đặc biệt từ sau quá trình đổi mới. Ngày nay phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, trong các ngành như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ (may mặt, giầy dép và chế biến thuỷ sản ), giáo dục, y tế, thương mại và đã đạt được những thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam. Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của phụ nữ đã được ghi nhận trong gia đình, công việc và ngoài xã hội. Như trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, đã xác định: “ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế, xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là công tác của phụ nữ, là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và của từng gia đình”.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...