Báo Cáo Biến đổi khí hậu đối với dải ven bờ tỉnh khánh hoà, những tiếp cận thích ứng và ứng phó

Thảo luận trong 'Hóa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mở đầu
    Tại Khánh Hoà, có thể chưa có đủ thông tin và cơ sở khoa học để xác nhận
    những tác động xấu của biến đổi khí hậu toàn cầu, nhưng cần phải lưu ý đến các bài
    học của nhiều quốc gia khác trên thế giới: những vùng đã có thiệt hại do sự biến đổi
    khí hậu gây ra thì trong những năm tới sẽ bị thiệt hại nặng hơn nữa, những vùng chưa
    thấy bị thiệt hại thì không có nghĩa là sẽ không bị thiệt hại trong thời gian tới
    (Rahmstorf, et al.2007 ). Chính vì thế, trong quá trình hoạch định phương hướng phát
    triển, không thể không nghiên cứu, tìm hiểu sâu và tính đến sự biến động của khí hậu.
    Bài báo tập trung bàn luận về một số dấu hiệu cảnh báo hiện tượng thay đổi khí
    hậu ở tỉnh Khánh Hoà từ đó xây dựng tiêu chí đánh giá sự tác động của biến đổi khí
    hậu và các giải pháp thích ứng, ứng phó và đưa ra một số đề xuất cụ thể trong chiến
    lược ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà.
    2. Tình hình biến đổi khí hậu ở Khánh Hoà
    Khánh Hoà có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường chỉ có hai mùa rõ rệt là mùa
    mưa và mùa nắng. So với các tỉnh phía Bắc từ Đèo Cả trở ra và các tỉnh phía Nam từ
    Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hoà tương đối ôn hoà hơn do mang tính chất
    của khí hậu đại dương. Sự biến đổi của khí hậu cũng như những tác động của biến đổi
    khí hậu đối với tài nguyên, môi trường và sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Khánh
    Hoà là một vấn đề tương đối mới và chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu. Sự hiểu biết
    định lượng về các hiện tượng đặc trưng, chỉ số, nguyên nhân và những tác động liên
    quan đến biến đổi khí hậu ở địa phương Khánh Hoà là điều kiện cần thiết để cảnh báo
    và là cơ sở khoa học trong xây dựng chiến lược ứng phó và thích ứng với biến đổi khí
    hậu. Dấu hiệu thường sử dụng để xác nhận hiện tượng thay đổi khí hậu là xu thế gia
    tăng nhiệt độ và lượng mưa theo thời gian, sự gia tăng mực nước biển, sự thay đổi của
    các dòng chảy địa phương, sự gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời
    tiết cực đoan.
    2.1. Các dấu hiệu cảnh báo về hiện tượng biến đổi khí hậu ở tỉnh Khánh Hoà
    2.1.1. Xu thế biến đổi nhiệt độ(oC)
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 232 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    Hình 1. Biến động nhiệt độ không khí
    trung bình ở Khánh Hoà trong 10 năm
    gần đây
    Hình 2a. Biến động mực nước tại trạm
    Cầu Đá-Viện Hải dương học
    Xác định xu thế biến đổi, gia tăng của nhiệt độ ở một vùng, một địa phương thì
    thường khó khăn hơn so với việc xác định xu thế biến đổi cho một quy mô lớn, quy
    mô toàn cầu hoặc quy mô quốc gia. Cách đây hơn một trăm năm người ta đã nói đến
    hiện tượng trái đất đang nóng lên và khoa học đã sử dụng phương trình cân bằng nhiệt
    để xác định nhiệt độ trung bình trên toàn thế giới đã tăng lên khoảng 0,60C/100 năm.
    Khánh Hoà là địa phương có khí hậu nóng, ẩm khá ổn định chủ yếu phụ thuộc
    vào vị trí, địa hình, mặt đệm và vai trò điều hoà nhiệt ẩm về mùa đông và điều hoà chế
    độ nhiệt vào mùa hè của biển Đông. Giá trị nhiệt độ cao tuyệt đối đo được ở Khánh
    Hoà là 39,2oC có thể làm cho giới hạn nhiệt độ sinh thái tối ưu cho sự sống của sinh
    vật bản địa ở Khánh Hoà sẽ cao hơn so với các vùng khác. So sánh trên nền biến động
    của nhiệt độ cực đoan, trong khi ở Khánh Hoà có giá trị nhiệt độ cực đoan thì ở các đia
    phương khác không phát hiện được và ngược lại. Chế độ nhiệt độ cực đoan từ năm
    1980 đã xảy ra ở vùng duyên hải Nam Trung bộ vào các năm: 1982, 1983,
    1985,1988,1993,1994, 1997, 1998 (Dương Liên Châu, 2007).
    2.1.2. Mực nước biển dâng lên
    Mực nước biển biến động rất phức tạp, vì có rất nhiều quá trình tác động lên
    biến động này như quá trình thành tạo biến động chu kì ngắn từ vài phút đến 18,613
    năm của mực nước biển. Thực tế biến động mực nước biển ở các vùng khác nhau trên
    thế giới cho thấy có nơi tăng, có nơi giảm. Sự biến động mực nước biển bao gồm hai
    thành phần chính: thành phần biến đổi triều và thành phần biến đổi không triều. Điển
    hình phân tích đánh giá các biến động của mực nước, xu thế biến đổi giá trị trung bình
    của mực nước và thành phần biến đổi không triều trong vùng biển Nha Trang (Khánh
    Hoà) Hình 2a, b và 3. Các đặc trưng thống kê mực nước trạm Cầu Đá (Nha Trang) cho
    thấy, có sự biến động rõ rệt các giá trị trung bình năm từ năm 1976 đến năm 2008
    (Đường trung bình). Tuy nhiên phải lưu ý rằng có rất nhiều năm số liệu mực nước
    từng giờ không được đo đạc đầy đủ làm cho kết quả tính toán các đặc trưng thống kê
    không được chính xác.
    Biến động triều có tám chu kì chính, từ 12h24.5’ đến 18,6 năm. Rõ ràng là với
    chuỗi số liệu hiện có của trạm Mực nước biển Cầu Đá, Nha Trang, không thể nêu nhận
    xét về sự gia tăng của mực nước biển do biến đổi khí hậu (hiệu ứng nhà kính, sự nóng
    lên của Trái Đất) nói chung và băng ở các cực Trái Đất tan ra nói riêng.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 233
    -150
    -100
    -50
    0
    50
    100
    87-90 91-95 95-00 00-05 06
    Biến động mực nước trung bình (cm)
    Cực tiểu
    Cực đại
    Trung bình
    Hình 2b. Biến động mực nước trung bình trong giai đoạn 5 năm tai Cầu Đá (cm)
    Hình 3. Xu thế biến đổi giá trị trung bình năm của mực nước trạm Cầu Đá, Nha Trang.
    1 - Giá trị trung bình năm (đường gạch – gạch); 2 - giá trị là trơn (đường liền)
    3 - Xu thế biến đổi của giá trị trung bình năm (đường gạch - chấm).
    Nhằm củng cố thêm nhận định này chúng ta có thể áp dụng hai phương pháp
    sau: một là chuỗi số liệu và hai là đồ thị và kết quả của hai phương pháp vừa nêu được
    trình bày ở Hình 3. Dựa vào kết quả thống kê cho thấy trong vòng ba mươi bốn năm
    qua giá trị trung bình năm của mực nước trạm Cầu Đá biến đổi với khoảng sáu chu kì
    (đường 2, Hình 3), nghĩa là một chu kì khoảng 5,7 năm và xu thế biến đổi chung là từ
    1975 đến 1992 giá trị trung bình năm của mực nước giảm trong khi từ 1992 đến 2008
    thì tăng (đường 3, Hình 3). Chênh lệch giá trị trung bình năm của mực nước năm 2008
    và 1975 là 5 cm. Biến động không triều của mực nước biển do một số quá trình xảy ra
    trong khí quyển, đại dương và vỏ trái đất tạo thành. Nghiên cứu biến động không triều
    của mực nước biển dựa trên dãy số liệu từng giờ của Trạm Mực nước biển Cầu Đá
    (Phòng Vật lí biển, Viện Hải dương học) và áp dụng phương pháp lọc (Nguyễn Kim
    Vinh, 2009) thì thu được chuỗi giá trị mực nước biển không triều. Từ đó có thể nêu
    các đặc trưng và đặc điểm biến động không triều của mực nước biển. Giá trị biến đổi
    không triều trong năm dao động trong khoảng từ 52 cm đến 108 cm. Như vậy, giá trị
    biến đổi không triều cực đại bằng 46% biến đổi mực nước lớn nhất (Biến đổi mực
    1975 1985 1995 2005
    1.10 Years
    1.20
    1.30
    SL(m)
    1
    2
    3
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 234 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    nước lớn nhất là 238 cm, vào tháng 11). Rõ ràng, vai trò của biến đổi không triều trong
    quá trình biến đổi chung của mực nước biển trong vùng là rất đáng kể. Để xét ảnh
    hưởng của gió mùa lên biến động không triều của mực nước biển trong vùng ta phải
    chọn hai tháng, một tháng đại diện cho mùa gió đông – bắc và một tháng đại diện cho
    mùa gió tây – nam. Giá trị trung bình năm biến động không triều trong hai tháng này
    là: vào tháng 1: từ 1 đến 14 cm và vào tháng 7: từ -6 đến –26 cm. Giá trị cực đại năm
    biến động không triều trong hai tháng này là: vào tháng 1: từ 9 đến 24 cm và vào tháng
    7: từ -15 đến –35 cm. Ở đây, giá trị dương có nghĩa là gió mùa đông – bắc làm gia
    tăng mực nước biển còn giá trị âm có nghĩa là gió mùa tây – nam làm giảm mực nước
    biển. Trong đó, gió mùa tây – nam gây biến động mực nước biển mạnh hơn, về giá trị
    gấp khoảng hai lần.
    Một cách tổng quát, quá trình biến động mực nước biển trong điều kiện biến đổi
    khí hậu hiện đại ngày càng phức tạp đòi hỏi phải tiến hành những đo đạc nghiên cứu
    toàn diện các quá trình thành tạo biến động đó. Kết quả tính toán và phân tích chuỗi số
    liệu mực nước từng giờ tại Nha Trang, từ năm 1976 đến năm 2008, cho thấy xu thế
    biến đổi mực nước biển với chu kì 5,7 năm. Từ 1976 đến 1992 mực nước (theo xu thế)
    giảm và từ 1993 đến 2008 mực nước tăng. Sự gia tăng mực nước và các quá trình động
    lực biển sẽ gây nhiều rủi ro cho các vùng bờ biển Khánh Hoà, đặc biệt nguy cơ xói lở
    sẽ tăng cao ở một số khu vực nhạy cảm như vùng bờ Xuân Tự (Vạn Ninh), đường
    Trần Phú ở Nha Trang và vùng Cam Lộc, Cam Phúc ở Cam Ranh.
    2.1.3. Các hiện tượng thời tiết cực đoan
    2.1.3.1. Bão và áp thấp nhiệt đới
    Trong 50 năm gần đây (1960-2010) có khoảng gần 500 cơn bão hoạt động trên
    biển Đông. Trung bình hàng năm có khoảng 10,24 cơn bão và 2,24 cơn áp thấp nhiệt
    đới. Số năm nhiều bão ( ≥ 12 cơn) chiếm tỉ lệ 27,5% và số năm ít bão (≤ 8 cơn) cũng
    chiếm tỉ lệ 27,5%. Năm 1964 là năm nhiều bão nhất có đến 16 cơn, còn năm 1969 là
    năm ít bão nhất chỉ có 4 cơn bão. Vùng có mật độ hoạt động của bão và áp thấp nhiệt
    đới cao nhất là vùng 15oN-22oN và 110oE -120oE. Khu vực Nam Biển Đông từ 10oN
    trở xuống xích đạo mật độ hoạt động của bão thấp.
    Theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Khánh Hoà thì từ năm 1956 đến năm 2000
    trung bình mỗi năm, Khánh Hoà chịu ảnh hưởng của khoảng 0,4 cơn bão. Các cơn bão
    được dự đoán sẽ đổ bộ vào Khánh Hoà trong những năm gần đây thường lệch hướng
    vào Nam hoặc tan ngay khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao
    nên khi có bão kèm theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng
    bão và triều dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt. Trong
    những năm 1976-2000, có tất cả chín cơn bão và một áp thấp nhiệt đới với tốc độ cấp
    VI-VII (39-61 km/g) chiếm 55%, lớn nhất cấp X (89-102 km/g) chiếm 12% đổ bộ vào
    Khánh Hoà. Thời gian gió mạnh từ cấp VI trở lên kéo dài trung bình 6-12 giờ.
    2.1.3.2. Lũ lụt
    Lũ lụt lớn thường đi sau ngay mưa lớn, bão và áp thấp nhiệt đới. Lũ tập trung
    rất nhanh về hạ lưu là những vùng trũng, thấp, thoát lũ kém, gây lụt nhiều ngày. Ở
    Khánh Hoà, những vùng có nguy cơ và rủi ro cao do ngập lụt lớn là vùng Vạn Giã
    (Vạn Ninh ) và vùng Ba Ngòi (Cam Ranh).
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 235
    2.2. Một vài hướng tiếp cận liên quan đến các giải pháp ứng phó với biến
    đổi khí hậu
    2.2.1. Nhận thức về các giải pháp ứng xử
    Loài người đang phải gấp rút giải quyết những vấn đề có liên quan đến biến đổi
    khí hậu. Đây là một thách thức rất lớn. Trong vấn đề xác định, định hướng các giải
    pháp, con người đang phải đối mặt với những nhận thức có chiều hướng trái ngược
    nhau. Với tư duy khoa học tự nhiên, giải pháp cho biến đổi khí hậu toàn cầu phải được
    thiết kế trên nhận thức “Nguyên nhân và Hậu quả”. Với nhận thức này thì “Thiệt hại
    khí hậu = Tổn thương khí hậu x Biến đổi khí hậu”. Ý nghĩa của mối tương quan này
    chỉ rõ hậu quả tai hại do khí nhà kính gây ra tỉ lệ thuận với sự biến đổi khí hậu cũng
    như sự tổn thương của các hệ thống tương ứng, đặc biệt là các hệ sinh thái trong vùng
    nhiệt đới, các vùng cực và các ngành kinh tế phụ thuộc vào nước và chất lượng nước
    như nông nghiệp và du lịch. Nhận thức này cho phép loài người có thể đề xuất những
    định hướng có tính chiến lược. Trong trường hợp lý tưởng tai họa khí hậu không xảy
    ra (bằng không), nghĩa là sự tổn thương khí hậu hoặc là sự biến đổi khí hậu không xảy
    ra. Như vậy, việc giới hạn tối đa sự biến đổi khí hậu phụ thuộc vào khả năng tổ chức
    triển khai các hoạt động ngăn ngừa hoặc làm giảm tối đa tổn thương khí hậu. Hệ thống
    khí hậu là một hệ nhạy cảm và phản ứng tức thời trước một thay đổi dù là nhỏ. Khí
    hậu thay đổi không phải là không có lí do, không có nguyên nhân nhưng để xác định
    được các nguyên nhân và các lý do đó là việc không hề đơn giản.
    Hiện nay, nhân loại đang phải đối mặt với một câu hỏi cực kì khó khăn là phải
    tìm ra giải pháp để có thể giải quyết được vấn đề khí hậu thay đổi. Cái khó nhất hiện
    nay khi nghiên cứu các giải pháp là chúng ta quá thiếu những dữ liệu thực tế, phần lớn
    chỉ dựa vào các mô hình dự báo ở quy mô toàn cầu và cho hàng trăm năm tới. Chính vì
    vậy, các giá trị thiệt hại do khí hậu biến đổi thiếu cơ sở khoa học nên ít thuyết phục.
    Giải pháp thích nghi cũng khó xác định được cơ sở khoa học vì khó có thể dự báo
    được những hậu quả do biến đổi khí hậu và cách tổ chức xã hội của loài người trong
    tương lai. Xác định “khả năng bị tổn thương” (vulnerability) hay “khả năng thích
    nghi” (adaptive capacity) cho tỉnh Khánh Hoà là một việc làm cần thiết. Các cơ quan
    chức năng có thừa khả năng để đưa ra biện pháp ngăn ngừa, phòng chống sự gia tăng
    mực nước dâng cao H m, trong một khoảng thời gian T, tại một địa phương nhất định
    nào đó ở ven biển Khánh Hoà và cũng không khó khăn nhiều trong việc đánh giá thiệt
    hại về người, về của tại vùng có nước biển dâng do khí hậu thay đổi. Quan trọng nhất
    khi chọn mục tiêu của giải pháp là không nên có tính toán đặt ra lợi nhuận cao nhất
    theo nhận thức của “Chi phí và Lợi ích” mà phải tìm cách đạt mục tiêu tốt nhất với khả
    năng ít tốn tiền, tốn sức nhất. Ở đây, cần hết sức chú ý trong định hướng các giải pháp,
    không thể vì mục tiêu gia tăng sự phát triển của một vùng, một quốc gia mà phải hy
    sinh môi trường sống của một địa phương, của một cộng đồng dân cư nào đó. Như vậy
    giải pháp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu nên dựa vào nhận thức “Nguyên nhân và
    Hậu quả”. Vấn đề khí hậu do con người gây ra, đã được con người nhận biết, tất nhiên
    nên để cho con người tự giải quyết bằng những cách tốt nhất. Phần lớn các nghiên cứu
    khoa học đều cho rằng trái đất nóng lên là do hiệu ứng nhà kính mà nguyên nhân chủ
    yếu là do hoạt động của con người như công nghiệp hóa cấp bách đã thải ra khí CO2,
    CH4, N2O và SF6 hay do phá rừng và phát triển chăn nuôi ở quy mô quá lớn. Mục tiêu
    chung của chiến lược bảo vệ khí hậu là làm sao để nhiệt độ trung bình của toàn thế
    giới không tăng vượt quá 2oC so với nhiệt độ trung bình của toàn thế giới trước thời kì
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 236 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    công nghiệp hóa, tức là mỗi thập niên nhiệt độ không khí không được tăng quá 0,2 oC
    và làm sao để giới hạn hàm lượng khí CO2 trong khí quyền phải có giá trị nhỏ hơn
    550 ppm.
    2.2.2. Một số đề xuất
    Nhiệt độ trung bình thế giới mới tăng khoảng 0,6oC trong thế kỉ XX nên hậu
    quả tác tại của biến đổi khí hậu diễn ra chưa nhiều. Tuy nhiên, các kịch bản biến đổi
    khí hậu đã dự báo về những tai họa lớn hơn đang rình rập phía trước dưới tác động của
    biến đổi khí hậu. Về mặt quản lí, theo kế hoạch chung của Việt Nam, tỉnh Khánh Hoà
    cũng đã soạn thảo chiến lược “Ứng phó với biến đổi khí hậu” (Mai Văn Thắng, 2010).
    Theo tài liệu này, tỉnh Khánh Hoà, cũng sẽ chịu nhiều những tác động và hậu quả to
    lớn do khí hậu thay đổi đối các nguồn lợi tài nguyên, các ngành kinh tế và sức khỏe
    cộng đồng. Để có cơ sở khoa học cho các giải pháp thích ứng và ứng phó, tỉnh Khánh
    Hoà cần lên kế hoạch nghiên cứu để có những kiến thức sâu và thực tế hơn nữa về
    “Nguyên nhân và Hậu quả” của sự biến đổi khí hậu. Ở Khánh Hoà, chưa thấy có nhiều
    công bố thông tin xác nhận những dấu hiệu cảnh báo của khí hậu thay đổi ở địa
    phương một cách chắc chắn và tin cậy, còn thiếu cơ sở khoa học cho những giải pháp
    thích ứng và ứng phó. Để cải thiện vấn đề này, Khánh Hoà cần đầu tư nghiên cứu một
    số vấn đề cụ thể như:
    -Vai trò của Biển Đông đối với sự biến đổi khí hậu ở Khánh Hoà.
    -Xu thế thay đổi hệ thống dòng chảy mang tính địa phương.
    -Các dự án trồng rừng nhằm tăng cường khả năng hấp thụ và lưu giữ khí
    cacbonic trong bầu khí quyển.
    -Xu thế biến đổi của các hệ sinh thái quần xã biển nhiệt đới như rừng ngập
    mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển
    -Xu thế phát triển của nghề cá, du lịch và các ngành kinh tế liên quan đến biển
    trong điều kiện khí hậu thay đổi toàn cầu.
    3. Kết luận
    Ở Khánh Hoà cũng đã xuất hiện một số dấu hiệu cảnh báo sự thay đổi của khí
    hậu như giá trị tuyệt đối của nhiệt độ cao đến 39,2 oC, mực nước biển cũng có xu thế
    gia tăng cũng như bước đầu xác định được những vùng nhạy cảm, có nguy cơ bị ảnh
    hưởng cao do tác động của khí hậu biến đổi. Tuy nhiên, Khánh Hòa cần phải tập trung
    nghiên cứu những cơ sở khoa học cho việc xây dựng các định hướng cho các giải pháp
    thích ứng và ứng phó trước nguy cơ và tác động do biến đổi khí hậu ở dải ven biển
    Khánh Hoà.
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Intergovernmental Panel on Climate Change (Edition ) (2010).
    2. Johanna E Johnson, Paul A Marshall (2007), Climate Change and the Great Barrier
    Reef. A Vulnerability Assessment.Climate neutral.
    3. Nguyễn Kim Vinh (2009), Nghiên cứu đặc điểm biến động mực nước biển trong điều
    kiện biến đổi khí hậu hiện đại.
    4. Sở KH&CN, Đài KTTV Khu vực Nam Trung bộ (2004), Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn
    tinh Khánh Hoà.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 237
    5. Viện Hải dương học (2011), Cẩm nang tra cứu về điều kiện tự nhiên, Môi trường,
    Sinh thái kinh tế, Xã hội và Quản lí tổng hợp đới ven bờ Nam Trung bộ, Nxb Khoa
    học tự nhiên và công nghệ, tập 1, 2.
    THE IMPACT OF CLIMATE CHANGE ON SHORE-LINE OF
    KHANH HOA PROVINCE, APPROACHS OF ADAPTATION
    AND RESPONSE
    Nguyen Tac An(1) , Nguyen Ky Phung(2)
    (1)Chairman of the National Ocenography Programme
    (2) Sub-Institute of Meteorology Hydrology and Environment
    This paper analyses the information about warning signals of climate changes and
    provides the methodology for assessing the impact of climate changes to the coastal regions
    in Khanh Hoa province. This paper also brings out the assignments need to be solved in
    bulding the fundamental science for approaching respond and mitigation to climate changes
    in Khanh Hoa province based on the outlook “Cause and Effect”.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 238 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN LƯU Ý KHI KHAI THÁC
    NĂNG LƯỢNG GIÓ
    Tạ Văn Đa
    Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
    Kinh tế xã hội càng phát triển, nhu cầu về năng lượng ngày càng tăng. Trong khi các
    dạng năng lượng dựa trên nguồn nhiên liệu hoá thạch ngày càng cạn kiệt, việc tìm kiếm và
    phát triển các nguồn năng lượng thay thế đang là nhu cầu bức thiết trên toàn thế giới cũng
    như ở Việt Nam. Năng lượng gió là một trong số các nguồn năng lượng thay thế có tiềm năng
    và đang được phát triển khai thác nhiều nhất. Để có được hiệu quả khai thác cao, cần nghiên
    cứu, xây dựng các giải pháp khai thác phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương có
    tiềm năng và có kế hoạch xây dựng dự án. Bài báo này trình bày phương pháp nghiên cứu
    xây dựng các giải pháp chủ yếu để khai thác năng lượng gió đạt hiệu quả cao.
    1. Mở đầu
    Nhu cầu về năng lượng không ngừng tăng lên trên phạm vi toàn thế giới cũng
    như đối với mỗi quốc gia. Kinh tế xã hội càng phát triển nhu cầu này càng tăng. Toàn
    thế giới cũng như đối với hầu hết các nước, năng lượng dựa trên nguồn nhiên liệu hoá
    thạch (than đá, dầu hoả, khí đốt .) đã và đang là nguồn năng lượng chủ yếu, song hiện
    đang có nguy cơ cạn kiệt. Việc tìm kiếm và phát triển các nguồn năng lượng thay thế
    được tiến hành liên tục trong nhiều thế kỷ qua nhất là trong những thập kỷ gần đây.
    Năng lượng gió là một trong số các nguồn năng lượng thay thế có tiềm năng và đang
    được phát triển khai thác nhiều nhất. Việc khai thác năng lượng gió không đòi hỏi
    công nghệ quá phức tạp và suất đầu tư không lớn như một số công nghệ khai thác năng
    lượng khác. Tuy nhiên, đây là một ngành công nghệ mới được phát triển, nhất là đối
    với Việt Nam, nên để có được hiệu quả khai thác cao, cần nghiên cứu, xây dựng các
    giải pháp khai thác phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương có tiềm năng và
    khả năng khai thác.
    2. Phương pháp nghiên cứu xây dựng giải pháp cho khai thác năng lượng gió
    Có nhiều các giải pháp để tiến hành khai thác năng lượng gió. Song theo chúng
    tôi, các giải pháp chủ yếu cần thiết cần được xây dựng là:
    + Giải pháp công nghệ;
    + Giải pháp kinh tế xã hội;
    + Giải pháp môi trường.
    Dưới đây trình bày về phương pháp nghiên cứu xây dựng các giải pháp chủ yếu
    cho khai thác năng lượng gió.
    2.1. Giải pháp công nghệ
    Để nghiên cứu lựa chọn giải pháp công nghệ thác năng lượng gió, trước hết,
    phải nghiên cứu kỹ về chế độ gió và tiềm năng chung của năng lượng gió ở khu vực,
    tính toán và đánh giá được dải tốc độ gió khai thác tối ưu đối với các loại thiết bị điện
    gió và với các khu vực có tiềm năng. Tiếp đó, cần tính toán và nghiên cứu xác định
    được tiềm năng kỹ thuật của năng lượng gió cho các khu vực có khả năng khai thác.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 239
    Vấn đề đặt ra là, cần phải lựa chọn các công nghệ khai thác năng lượng gió như thế
    nào cho phù hợp nhất với trình độ công nghệ hiện tại trên Thế giới cũng như ở Việt
    Nam trong một tương lai gần. Tất nhiên, ở mỗi khu vực khai thác năng lượng gió khác
    nhau trên đất nước, việc lựa chọn giải pháp công nghệ khai thác còn tuỳ thuộc vào
    tiềm năng năng lượng gió, điều kiện địa lý địa hình và các điều kiện về kinh tế - xã hội
    của địa phương. Dưới đây trình bày phương pháp nghiên cứu để đưa ra giải pháp lựa
    chọn các công nghệ khai thác năng lượng gió cho các khu vực có khả năng khai thác
    năng lượng gió.
    Để giải pháp công nghệ khai thác năng lượng gió phù hợp với điều kiện của địa
    phương, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp được dựa trên các tiêu chí cụ thể sau
    đây:
    + Tiểm năng chung của năng lượng gió trên khu vực;
    + Dải tốc độ gió khai thác tối ưu;
    + Tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió trên khu vực;
    + Điều kiện địa lý địa hình khu vực;
    + Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực;
    + Trình độ công nghệ khai thác năng lượng gió trong và ngoài nước vào thời
    điểm hiện tại và tương lai gần.
    Khi lựa chọn giải pháp, trước hết, phải xem xét tính phù hợp của giải pháp dự
    kiến đề xuất đối với từng tiêu chí cụ thể. Sau đó, phải xem xét một cách tổng thể sự
    phù hợp của giải pháp đối với tất cả các tiêu chí trên cơ sở cân nhắc tương quan giữa
    các tiêu chí có tính đến mức độ ưu tiên đối với các tiêu chí có tính đặc thù.
    Tiềm năng năng lượng gió của khu vực giúp cho việc đánh giá khả năng khai
    thác, xác lập quy mô tổng quát của dự án, từ đó có định hướng cho giải pháp công
    nghệ khai thác. Chẳng hạn, với khu vực có tiềm năng lớn, ngay từ đầu các nhà đầu tư
    có thể xác định khả năng xây dựng một dự án quy mô lớn nối lưới; với một khu vực có
    tiềm năng nhỏ, chỉ có thể tính đến dự án khai thác quy mô nhỏ, không nối lưới.
    Dải tốc độ gió khai thác tối ưu rất quan trọng cho việc lựa chọn thiết bị khai
    thác để thu được tối đa sản lượng điện do gió mang lại cho khu vực với xuất đầu tư
    thấp nhất có thể. Nhờ đó, đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngoài ra, dải tốc độ gió khai
    thác tối ưu còn đảm bảo lựa chọn thiết bị khai thác hoạt động an toàn trong khu vực có
    chế độ gió biến đổi bất thường.
    Kết quả xác định tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió trên khu vực giúp cho việc
    xác định cụ thể quy mô của dự án và vị trí xây dựng các tua bin gió cụ thể. Đây cũng
    là cơ sở để lựa chọn các thiết bị (công suất) khai thác mang lại hiệu quả cao.
    Các tiêu chí khác cũng rất quan trọng để xác định giải pháp công nghệ khai
    thác. Ví dụ, có những khu vực có tiềm năng năng lượng gió rất lớn nhưng khi xác định
    giải pháp công nghệ khai thác chỉ có thể lựa chọn công nghệ có quy mô vừa phải để
    phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương đó. Chẳng hạn như đảo Lý Sơn
    (Quảng Ngãi) cách đất liền khoảng 25 ki lô mét, ở đây có năng lượng gió rất lớn (tốc
    độ gió trung bình năm ở mặt đất là 3,6m/s và ở độ cao 60m là gần 6m/s; tổng năng
    lượng gió cả năm ở các độ cao tương ứng là 1078,4KWh/m2 và 2916,7KWh/m2) và
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 240 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    điều kiện địa lý địa hình trên đảo rất thuận lợi cho xây dựng một nhà máy điện gió quy
    mô lớn. Nhưng cả huyện đảo chỉ có khoảng hai vạn dân sinh sống chủ yếu bằng nghề
    trồng hành tỏi và chài lưới, trên đảo không có khu công nghiệp nào. Nhu cầu dùng
    điện trên đảo này chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt và làm nghề nông. Nếu xây dựng nhà
    máy điện gió quy mô lớn, việc đầu tư sẽ rất lớn và chắc chắn sẽ có điện dư thừa đáng
    kể không để làm gì. Như vậy, hiệu quả kinh tế sẽ rất thấp.
    2.2. Giải pháp kinh tế xã hội
    Để xác định giải pháp công nghệ khai thác có hiệu quả, cần phải nghiên cứu
    điều kiện kinh tế xã hội ở địa phương dự kiến xây dựng dự án. Thêm vào đó, cần có
    giải pháp về kinh tế xã hội phù hợp để việc thu hút đầu tư và triển khai các dự án, quản
    lý khai thác sử dụng nguồn năng lượng điện có nhiều thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
    Giải pháp kinh tế xã hội được xây dựng trên cơ sở các điều kiện sau:
    - Điều kiện phân bố dân cư và quy hoạch các khu kinh tế trọng điểm của địa
    phương;
    - Điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của địa phương;
    - Các cơ chế chính sách của Nhà nước và các quy định cụ thể của địa phương
    (chính sách ưu đãi đầu tư, cơ chế giá bán điện, chính sách thuế, chính sách cấp đất cho
    các dự án, ) về vấn đề khai thác năng lượng tái tạo nói chung và năng lượng gió nói
    riêng.
    2.3. Giải pháp môi trường
    Nói chung, việc khai thác năng lượng gió không có tác động xấu đáng kể đến
    môi trường chung quanh. Đặc biệt, với trình độ công nghệ hiện nay, nhiều loại thiết bị
    điện gió đã được quan tâm khử nhiễu tiến ồn đến mức triệt để. Tuy nhiên, trong thực tế
    trển khai các dự án điện gió, người ta vẫn cần quan tâm đến giải pháp môi trường để
    tránh đến mức thấp nhất tác động bất lợi của việc khai thác năng lượng gió đến môi
    trường chung quanh. Giải pháp môi trường được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí sau:
    - Đánh giá mức độ các vật phế thải và nước thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình thi
    công dự án:
    - Mức độ tiếng ồn do động cơ (tua bin) gây ra trong quá trình vận hành. Để khắc phục
    tình trạng tiếng ồn, trước hết, khi chọn thiết bị khai thác phải tìm hiểu kỹ trình độ công
    nghệ của các nhà cung cấp thiết bị để lựa chọn loại thiết bị có khả năng khử tiếng ồn
    cơ học và giảm tiếng ồn khí động học tốt nhất, đảm bảo mức tiến ồn khi vận hành thiết
    bị nằm trong phạm vi cho phép (QCVN 27:2010/BTNMT).
    - Khi lập kế hoạch đầu tư, lập báo cáo đầu tư, lựa chọn khu vực xây dựng dự án, phải
    tính đến khoảng cách từ khu vực xây dựng dự án đến khu vực dân cư gần nhất. Thông
    thường, với trình độ công nghệ như hiện nay, khu vực xây dựng nhà máy điện gió quy
    mô lớn cần cách khu dân cư ít nhất là khoảng 400 đến 500 mét. Ở khoảng cách này,
    cường độ tiếng ồn bị giảm đi khoảng 10dB (đề xi ben) so với mức tiếng ồn ở ngay
    điểm đặt máy.
    - Xem xét hướng gió thịnh hành ở khu vực xây dựng dự án cũng góp phần quan trọng
    trong việc giảm thiểu tác động của tiếng ồn;
    - Mức độ bóng che của cột trụ và cánh quạt tua bin.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 241
    Tóm lại, để đầu tư xây dựng một dự án khai thác năng lượng gió (nhất là khai
    thác điện gió) một cách có hiệu quả, cần nghiên cứu xây dựng được các giải pháp đặc
    biệt là ba giải pháp chủ yếu nêu trên cho phù hợp với điều kiện thực tế của các địa
    phương có tiềm năng và khả năng khai thác. Muốn vậy, trước đó cần tiến hành khảo
    sát, nghiên cứu để đánh giá cụ thể về tiềm năng năng lượng gió, về điều kiện địa lý địa
    hình và về điều kiện kinh tế xã hội đối với từng địa phương.
    3. Kết luận
    Để làm kết luận cho bài báo này, xin nêu ra một vài ý kiến nhận xét sau:
    - Giải pháp công nghệ, giải pháp kinh tế xã hội và giải pháp môi trường là ba giải
    pháp chủ yếu không thể thiếu được khi đầu tư xây dựng một dự án khai thác năng
    lượng gió (nhất là khai thác điện gió).
    - Muốn xây dựng tốt ba giải pháp trên, cần tiến hành khảo sát, nghiên cứu để
    đánh giá cụ thể về tiềm năng năng lượng gió, về điều kiện địa lý địa hình và về điều
    kiện kinh tế xã hội đối với từng địa phương.
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2010). Nghiên cứu các giải pháp công nghệ khai thác năng
    lượng gió tại một số khu vực ven bờ biển Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ khoa học.
    Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
    2. Tạ Văn Đa (2006). Đánh giá tài nguyên và khả năng khai thác năng lượng gió trên
    lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học. Viện Khí tượng
    Thuỷ văn.
    3. Trần Việt Liễn và cộng sự (2010). Nghiên cứu lựa chọn công nghệ khai thác năng
    lượng gió. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội thảo khoa học thuộc đề tài "Nghiên cứu
    đánh giá tiềm năng các nguồn năng lượng biển chủ yếu và đề xuất các giải pháp khai
    thác". Đề tài cấp Nhà nước KC.09.19/06-10, Hà Nội – 10/2010.
    METHOD TO RESEARCH AND CONSTRUCTION
    MAJOR SOLUTIONS FOR WIND ENERGY EXPLOITATION
    Ta Van Da
    Vietnam Institute of Meteorology Hydrology and Environment
    The development of socio-economy always goes along with the increase in energy
    demand. While other forms of energy based on fossil fuels increasingly exhausted, finding
    other alternative energy sources is the urgent task for nations all over the world as well as for
    Vietnam. Wind energy is one of the renewable energy sources and is being developed and
    exploited the most. To obtain high extraction efficiency, study and buildings of appropriate
    solutions to exploit this resource are of great importance especially for regions whose wind
    energy potential was investigated. This paper presents methodological solutions built
    primarily to exploit wind energy with high efficiency.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 242 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LỒNG GHÉP
    CÁC HOẠT ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
    VÀO CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐỊA PHƯƠNG
    Hoàng Nguyễn Giáp, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Bá Hùng, Trần Lan Anh,
    Trần Thị Vân, Trần Hồng Thái
    Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
    Lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) nhằm mục đích bảo
    đảm tính hiệu quả và bền vững của các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển, phòng
    ngừa những rủi ro có thể xảy ra do tác động của BĐKH.
    Trên cơ sở tư vấn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của một số tỉnh
    đại diện, bài báo đã nêu ra các bước của việc lồng ghép các yếu tố vào các chương trình dự
    án và phải theo 3 nguyên tắc: chủ động, toàn diện và hiệu quả. Quá trình lồng ghép gồm 7
    bước.
    1. Mở đầu
    Trên tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua các ngành,
    các địa phương đã và đang nỗ lực xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với
    BĐKH với những đặc thù của ngành và từng địa phương.
    Nghiên cứu khả năng lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các
    chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương là một trong các
    nhiệm vụ mà Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường đang triển khai
    thực hiện.
    Trong quá trình tư vấn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí
    hậu của các tỉnh Phú Thọ, Lào Cai, Hà Nam, Hà Tĩnh , việc nghiên cứu khả năng
    lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH đã tập trung vào ba nội dung chính là:
    - Đánh giá thực trạng;
    - Nguyên tắc lồng ghép;
    - Quy trình lồng ghép;
    2. Đánh giá thực trạng
    Lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế
    hoạch phát triển là triển khai sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước, là sự
    thể hiện trách nhiệm không những của các bộ, ngành, địa phương mà cả các doanh
    nghiệp và cả cộng đồng xã hội. Việc lồng ghép này nhằm mục đích bảo đảm tính hiệu
    quả và bền vững của các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển, phòng ngừa
    những rủi ro có thể xảy ra do tác động của những hiện tượng khí hậu cực đoan và xu
    thế BĐKH dài hạn, hoặc những hậu quả chưa lường hết được về môi trường và xã hội
    do việc thực hiện các kế hoạch đó gây ra. Trong cuộc chiến chống lại những thảm họa
    thiên nhiên mà một phần do chính con người gây ra việc lồng ghép này nhằm mục
    đích giảm thiểu tối đa thiệt hại về người và của do các thảm họa từ thiên nhiên.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 243
    Ở các tỉnh, mặc dù các cấp chính quyền, địa phương đã có sự quan tâm và định
    hướng ban đầu trong kế hoạch lồng ghép hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến
    lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển. Tuy nhiên, việc lồng ghép còn gặp nhiều khó
    khăn do các tỉnh đang trong quá trình phát triển, sự chỉ đạo ở chính quyền các cấp từ
    Trung ương tới địa phương còn hạn chế, chưa có các hướng dẫn cụ thể về lồng ghép,
    mà mới chỉ ban hành Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với
    BĐKH của các Bộ, ngành địa phương. Đồng thời, chưa chỉ ra được yêu cầu cụ thể về
    vai trò, trách nhiệm của các đơn vị lập kế hoạch trong việc thực hiện. Chưa có đủ dữ
    liệu mang tính định lượng về khả năng diễn biến của biến đổi khí hậu trong tương lai
    (các kịch bản biến đổi khí hậu còn mang tính trung bình cho một khu vực rộng lớn,
    thiếu các trị số cực trị có khả năng xảy ra trong tương lai đối với những vùng nhỏ như
    quy mô quận, huyện ); Nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng đối với BĐKH còn
    rất hạn chế.
    3. Nguyên tắc lồng ghép
    Một thực tế cho thấy, các công trình, dự án lớn ở Việt Nam đều chưa tính tới
    khả năng ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, nếu không có kế hoạch lồng ghép và những
    điều chỉnh cụ thể đối với từng hoàn cảnh nó sẽ tạo sự kìm hãm sự phát triển bền vững
    ảnh hưởng tới thế hệ tương lai. Đặc biệt, thời gian gần đây, các hoạt động ứng phó với
    BĐKH của Việt Nam nhận được nhiều sự quan tâm và hỗ trợ tích cực của cộng đồng
    quốc tế với nhiều hình thức hợp tác song phương, đa phương và đa dạng về tài chính.
    Vì thế, việc cấp thiết xây dựng các nội dung đánh giá tác động của BĐKH, lồng ghép
    trong những chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của mỗi Bộ, ngành, địa
    phương là không thể chậm trễ.
    Lồng ghép các yếu tố vào các chương trình dự án phải theo 3 nguyên tắc: chủ
    động, toàn diện và hiệu quả.
    Cụ thể, việc lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào các chiến lược,
    chính sách, quy hoạch, kế hoạch chương trình/dự án phát triển của ngành, đơn vị cần
    phải trên nguyên tắc chủ động thực hiện từ cơ sở trong quá trình chuẩn bị các kế hoạch
    phát triển của ngành và các lĩnh vực, qua các khâu: Lập - Thẩm định và Phê duyệt - Tổ
    chức thực hiện. Trong đó, cơ sở phải được quyền chủ động trong quá trình lồng ghép,
    đồng thời, tuân thủ hướng dẫn chung của kế hoạch. Bên cạnh đó, các giải pháp thực
    hiện cần được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình
    thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp được xây dựng trên cơ sở:
    (1) Mức độ ảnh hưởng của BĐKH thông qua việc xem xét diễn biến các yếu tố
    trong kịch bản BĐKH đã được công bố.
    (2) Phải tính toán chi phí - lợi ích của các giải pháp đối với ngành, lĩnh vực.
    (3) Cuối cùng, cần phải chú ý tới nguyên tắc tổng hợp. Đó là khi lựa chọn các
    biện pháp cần phải lưu ý tới cả hai loại biện pháp chủ yếu: Biện pháp công trình và
    biện pháp phi công trình. Với mỗi loại biện pháp cần phân tích rõ những ưu điểm,
    nhược điểm và khả năng phối hợp trong quá trình thực hiện.
    4. Quy trình lồng ghép
    Quá trình lồng ghép các hoạt động ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy
    hoạch, kế hoạch phát triển nhằm nâng cao nhận thức về BĐKH, khả năng ứng phó với
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 244 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    tác động của BĐKH, duy trì sự ổn định và tính hiệu quả của các chiến lược, quy
    hoạch, kế hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn các tỉnh.
    Quá trình lồng ghép các hoạt động BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế
    hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn các tỉnh thực hiện theo quy
    trình như sau:
    - Bước thứ 1: Xác định chỉ tiêu của quá trình lồng ghép các hoạt động ứng phó
    BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, phát triển ngành
    và các địa phương.
    - Bước thứ 2: Đánh giá tác động của BĐKH đến các chiến lược, quy hoạch, kế
    hoạch phát triển của các lĩnh vực và khu vực trên địa bàn tỉnh.
    Quá trình lồng ghép cần đưa ra được các minh chứng về tác động của BĐKH
    tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các lĩnh vực, khu vực. Quá trình
    đánh giá tác động tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phải có tính khoa học và
    thuyết phục cao và nêu bật được tính cần thiết của việc lồng ghép. Vì tác động của
    BĐKH là lâu dài và có sự thay đổi thường xuyên, quá trình đánh giá tác động của
    BĐKH tới các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển này cần nêu ra được các tổn
    thương có thể, ở hiện tại và trong tương lai, nếu quá trình lồng ghép này không được
    thực hiện.
    - Bước thứ 3: Đánh giá quá trình thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế
    hoạch phát triển ngành và địa phương. Để lồng ghép các hoạt động ứng phó BĐKH
    vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển cần đánh giá việc thực hiện các
    chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được xác định. Quá trình đánh giá này sẽ chú trọng
    tới các nội dung đã và đang được thực hiện của từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
    phát triển. Cần xác định các lĩnh vực, khu vực trên địa bàn tỉnh có tính nhạy cảm và dễ
    bị tổn thương cao đối với các tác động do BĐKH để có biện pháp ưu tiên.
    Quá trình đánh giá này cũng cần được thực hiện với sự hợp tác của các bộ,
    ngành, cơ quan, tổ chức, khu vực và vùng đã và đang thực hiện các chiến lược, quy
    hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.
    - Bước thứ 4: Đánh giá nhận thức và năng lực về BĐKH của đội ngũ cán bộ
    của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành nhằm thực hiện quá trình
    lồng ghép.
    Quá trình lồng ghép được thực hiện phần lớn bởi các cán bộ của các chiến lược,
    quy hoạch, kế hoạch phát triển. Do đó, đánh giá nhận thức về BĐKH và đội ngũ cán
    bộ đã và đang thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển là rất cần thiết.
    Quá trình đánh giá này cũng sẽ bổ trợ cho việc xây dựng cơ chế chính sách và chiến
    lược của quá trình lồng ghép.
    - Bước thứ 5: Đánh giá các tác động của quá trình lồng ghép (gồm cả hai mặt
    tích cực và tiêu cực).
    Nội dung đánh giá bao gồm: quá trình thực hiện, các chiến lược, quy hoạch, kế
    hoạch phát triển; các tác động tích cực hoặc tiêu cực của quá trình lồng ghép này đối
    với các khu vực và lĩnh vực ưu tiên, với quá trình thực hiện trong tương lai của các
    chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và đóng góp của các chiến lược, quy hoạch,
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 245
    kế hoạch phát triển này cho sự phát triển KT-XH của tỉnh nói riêng và của đất nước
    nói chung trong bối cảnh tác động của BĐKH ngày càng gia tăng. Quá trình đánh giá
    tác động này cung cấp các thông tin ban đầu cho việc xây dựng các cơ chế chính sách,
    chiến lược và các hành động cụ thể của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
    trong quá trình lồng ghép.
    - Bước thứ 6: Xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược lồng ghép (bao gồm
    cả các vấn đề về tài chính, kinh tế và chính sách).
    Quá trình xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược lồng ghép cần dựa trên kết
    quả đánh giá quá trình thực hiện, năng lực và nhận thức về BĐKH của đội ngũ cán bộ
    của các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và quá trình đánh giá tác động ban
    đầu của quá trình lồng ghép.
    Quá trình xây dựng cơ chế chính sách và chiến lược này cần nêu bật các khu
    vực và lĩnh vực ưu tiên; đưa ra các bước hành động cụ thể và có hướng dẫn đánh giá,
    giám sát thường xuyên của ban chỉ đạo.
    - Bước thứ 7: Thực hiện quá trình lồng ghép trong từng chiến lược, quy hoạch,
    kế hoạch phát triển.
    5. Kết luận
    Nghiên cứu lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu trên trên cơ
    sở đánh giá thực trạng dựa trên những nguyên tắc xuyên suốt là chủ động, toàn diện và
    hiệu quả là cơ sở quan trọng trong lồng ghép hiệu quả các hoạt động ứng phó với
    BĐKH tại các tỉnh.
    Nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng không những trong
    quá trình tư vấn xây dựng kế hoạch hành động cho các tỉnh mà sẽ là cơ sở quan trọng
    để các tỉnh có thể triển khai hiệu quả kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH.
    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
    biến đổi khí hậu.
    2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 2011. Chỉ thị về việc lồng ghép biến đổi khí
    hậu vào xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề
    án phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011 – 2015.
    3. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2010. Biến đổi khí hậu và tác
    động ở Việt Nam.
    4. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2011. Tài liệu hướng dẫn Đánh
    giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng.
    5. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ. 2005. Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH
    tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.
    6. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ. 2010. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
    2011-2015 của tỉnh Phú Thọ.
    7. Trung tâm Tư vấn Khí tượng Thủy văn và Môi trường. 2011. Xây dựng kế hoạch hành
    động ứng phó với biến đổi khí hậu của các tỉnh Phú Thọ, Hà Nam, Lào Cai.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 246 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    STUDY ON MAINSTREAMING CLIMATE CHANGE ADAPTATION
    ACTIONS INTO THE DEVELOPMENT OF SOCIO – ECONOMY AT
    THE LOCAL LEVEL
    Hoang Nguyen Giap, Nguyen Phuong Thao, Nguyen Ba Hung, Tran Lan Anh,
    Tran Thi Van, Tran Hong Thai
    Vietnam Institute of Meteorology, Hydrology and Environment
    Integrating activities to cope with climate change (CC) aims to ensure the efficiency
    and sustainability of strategies, planning, master plan, to prevent the risks that may occur
    caused by effects of CC
    On the basis of consultancy and development of action plan to cope with CC in some
    represented provinces, the paper gives steps of the integration of elements into programs of
    project. It has to follow to 3 principles: to take the initiative, Exhaustiveness and efficiency.
    The process of the integration comprises of 7 steps.
    Though level of local authorities have concerned and had the initial orientation,
    integrating is still facing lots of difficulties in implementation.
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu 247
    BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN
    XU HƯỚNG DIỄN BIẾN THIÊN TAI LŨ, LỤT, LŨ QUÉT VÀ HẠN HÁN
    Ở VIỆT NAM
    Lê Bắc Huỳnh(1), Bùi Đức Long (2)
    (1) Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, (2) Trung tâm Dự báo KTTV TƯ
    Trong những năm cuối của thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã
    làm gia tăng các loại thiên tai, trong đó có mưa lớn, lũ, lụt, lũ quét, hạn hán thiếu nước.
    Trong 30 năm qua, cả nước liên tiếp xảy ra những thiên tai lũ lụt, ngập úng lớn, lũ quét, hạn
    hán, gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư, hạ tầng cơ sở, ảnh hưởng rất lớn đến phát
    triển kinh tế xã hội trong vùng. Dựa trên những tài liệu đo đạc, khảo sát khí tượng thủy văn,
    đặc trưng thủy văn, các loại hình thiên tai thủy văn trong 30 năm gần đây báo cáo đã trình
    bày kết quả nghiên cứu tổng hợp, phân tích diễn biến của các đặc trưng thủy văn, tài nguyên
    nước, trên cơ sở đó xem xét đánh giá những biểu hiện cụ thể của BĐKH đối với lũ lụt, lũ quét,
    hạn hán thiếu nước và tài nguyên nước nói chung ở các lưu vực sông nước ta, đồng thời đánh
    giá hiểm họa thiên tai lũ lụt, lũ quét, nguy cơ hạn hán thiếu nước trong những thập kỷ tới ở
    các vùng miền nước ta nhằm góp phần làm rõ hơn bức tranh chung của ảnh hưởng của
    BĐKH đối với nguy cơ thiên tai ở các vùng, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn hoạch định các
    giải pháp khả thi ứng phó hiệu quả trong những năm tới.
    1. Diễn biến thiên tai thủy văn chính trong những năm gần đây
    Trong những năm gần đây, trên các khu vực toàn quốc đã xảy ra những lũ lụt
    lớn như ở Bắc Bộ năm 1996, 2002, 2008; ở Trung Bộ năm 1998, 1999, 2007, 2009,
    2010 và Nam Bộ năm 2000, 2001, gây thiệt hại lớn về người và của (hình 1). Những
    số liệu thống kê không thể nào diễn tả hết thảm cảnh do thiên tai lũ, lụt để lại, nhất là
    hậu quả rất nặng nề về tâm lý, xã hội và kinh tế. Lũ quét bất ngờ, nhanh, có sức tàn
    phá lớn thường xảy ra ở các lưu vực nhỏ và vừa ở vùng núi cao phía Bắc, miền Trung
    và Tây Nguyên. Trong 20 năm 1990-2009, đã xảy ra gần 250 trận lũ quét ở trên hầu
    hết các vùng, nhưng tập trung phần lớn ở vùng núi phía Bắc (hình 2), riêng trong 10
    năm, từ 2000 đến 2009, xảy ra tới 147 trận lũ quét làm chết và mất tích 1340 người, bị
    thương 846 người. Đây là những dấu hiệu cho thấy, BĐKH đã có xu hướng làm gia
    tăng hiểm họa thiên tai lũ lụt, lũ quét ở các vùng, miền nước ta, gây hậu quả nghiêm
    trọng hơn trước. Thiệt hại trong những thập kỷ gần đây cũng gia tăng liên tục. Hạn
    hán, thiếu nước và xâm nhập mặn là thách thức lớn đối với phát triển, nhất là dưới tác
    động của BĐKH khi nền nhiệt độ tăng làm gia tăng bốc, thoát hơi nước trong khi lại
    giảm rõ rệt lượng mưa trong mùa khô thậm chí kéo dài thời gian không mưa, nguồn
    nước trong sông mùa kiệt suy giảm đáng kể mà nhu cầu về nước cho sinh hoạt, đời
    sống, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường không ngừng tăng lên. Trong tình hình như
    vậy thì rõ ràng phải luôn đối mặt với hiểm họa hạn hán thiếu nước, nhất là ở đồng
    bằng các lưu vực sông lớn, có khi trên diện rộng lớn bao trùm hầu khắp nước như tình
    trạng hạn hán thiếu nước nghiêm trọng năm 1997-1998. Thiên tai hạn hán thiếu nước
    điển hình đã xảy ra gần đây trong các mùa khô 1992-1993, 1997-1998, 2000, 2001,
    2002, 2003, 2004-2005, 2010.
    2. Đánh giá bước đầu tác động của BĐKH đối với lũ lụt, hạn hán thiếu nước
    Hội thảo khoa học Quốc gia về Khí tượng Thuỷ văn, Môi trường và Biến đổi Khí hậu
    Tập 1: Khí 248 tượng - Khí hậu, Khí tượng Nông nghiệp và Biến đổi Khí hậu
    2.1. Đánh giá xu hướng diễn biến lũ lụt trong 3 thập kỷ gần đây
    Việc phân tích số liệu quan trắc tại 24 trạm thủy văn trong 3 thập kỷ gần đây
    (1980-2009) trên các sông ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (hình 3, bảng 1) cho thấy, xu
    hướng chung là liên tục gia tăng đỉnh lũ cao nhất năm, trừ ở một số trạm thuộc hạ lưu
    sông Hồng-Thái Bình như Sơn Tây, Hà Nội, Phả Lại có xu hướng giảm do tác động
    điều tiết cắt lũ của các hồ chứa trên sông Hồng, hoặc ít thay đổi ở hạ lưu sông Mã và
    sông Cả. Xu hướng chung khi tính đỉnh lũ năm trung bình 3 thập kỷ liên tiếp (1980-
    1989, 1990-1999 và 2000-2009) ở hầu hết các sông đều tăng dần, trừ ở hạ lưu sông
    Thái Bình có xu hướng giảm chậm mà nguyên nhân chủ yếu là do điều tiết giảm lũ tại
    Sơn Tây và Hà Nội, Thượng Cát bằng các hồ chứa trên lưu vực trong 2 thập kỷ gần
    đây. Nếu sơ bộ loại trừ tác động cắt giảm lũ nhờ các hồ chứa trên sông Hồng, có thể
    thấy mức độ gia tăng đỉnh lũ ở thượng lưu các lưu vực sông đều lớn hơn ở vùng hạ
    lưu. Như vậy, có thể thấy, nguy cơ gia tăng lũ lụt do BĐKH và một số nguyên nhân do
    con người đã biểu hiện rõ ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...