Tài liệu Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính.

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH.
    TRẦN MINH DŨNG – Chánh Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ
    I. Quy định pháp luật về biện pháp hành chính xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
    1. Tại sao sử dụng biện pháp hành chính để xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ?
    Khác với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ có đặc điểm là đối tượng quyền tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin, do đó có khả năng lan truyền rộng lớn và dễ có khả năng được vật chất hoá hàng hoạt, sau đó trở thành thực thể tác động, ảnh hưởng đến đời sống của nhiều người, cũng như của cả xã hội. Do vậy, một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ gây hậu quả tiêu cực cho người nắm giữ quyền bị xâm phạm đó, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người tiêu dùng khác, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội.
    Như vậy, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng là hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ và quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (Nhà nước đã xác lập quyền cho chủ thể quyền và nghiêm cấm hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu trí tuệ) và gây ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể quyền, lợi ích của người tiêu dùng và gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội cần phải loại trừ. Do vậy, trong một số trường hợp nhất định, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể coi là hành vi vi phạm hành chính.[1]
    Pháp luật về sở hữu trí tuệ có quy định về việc Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể quyền và việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hành vi vi phạm pháp luật. Một hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ gây tổn hại cho chủ thể quyền đối với đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, mà còn có thể gây thiệt hại đến lợi ích của người thứ ba – người tiêu dùng trong xã hội và có thể nói là gây tổn hại cho lợi ích của xã hội. Ví dụ, việc xâm phạm quyền đối với một nhãn hiệu hàng hoá, thì hành vi xâm phạm quyền đó không chỉ gây tổn hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu bị xâm phạm (giảm thị phần, giảm lợi nhuận, làm suy giảm lòng tin của khách hàng vào sản phẩm mang nhãn hiệu đó ), mà còn gây thiệt hại cho người tiêu dùng khi mua phải hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu hàng hoá đó (như chất lượng không được như hàng thật nhưng phải trả tiền với giá trị tương đương với hàng thật; đôi khi còn gây tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng nếu hàng giả, hàng nhái đó liên quan đến thực phẩm hoặc dược phẩm ).
    Trong bối cảnh trình độ công nghệ ngày càng cao, việc sản xuất các sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể được tiến hành với quy mô lớn và hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng được lưu thông với phạm vi rộng, khiến cho số người bị ảnh hưởng hoặc bị tổn hại cũng sẽ chiếm số đông trong xã hội. Vì vậy, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng thuộc loại hành vi chống lại lợi ích xã hội. Do đó, bên cạnh quan hệ dân sự, vấn đề xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng được xem xét và xử lý theo khía cạnh hành chính. Mục tiêu của biện pháp hành chính trong thực thi quyền sở hữu trí tuệ là bảo vệ lợi ích của người thứ ba và của xã hội, cũng chính là gián tiếp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể quyền.
    2. Cơ sở pháp lý sử dụng biện pháp hành chính để xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
    Khái niệm “biện pháp hành chính” được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Văn bản luật này được xây dựng trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực sửa đổi hệ thống pháp luật quốc gia để đáp ứng các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS, nhằm mục tiêu trở thành thành viên của WTO. Có thể nói rằng, việc đưa khái niệm “biện pháp hành chính”, bên cạnh “biện pháp dân sự”, “biện pháp hình sự”, “biện pháp kiểm soát biên giới” vào văn bản luật nói trên[2] là thể hiện sự chuyển thể các quy định tương ứng của Hiệp định TRIPS vào thành vào hệ thống văn bản pháp luật quốc gia.
    Khái niệm biện pháp hành chính, theo nghĩa rộng, có thể hiểu là bao quát hết các khái niệm thường dùng trong hệ thống pháp luật hành chính của Việt Nam như chế tài hành chính, hình thức xử lý hành chính, biện pháp xử lý hành chính, thủ tục xử lý hành chính .v.v. được áp dụng để xử lý các hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà nước trong một lĩnh vực nhất định. Theo nghĩa này, biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ là bao gồm toàn bộ các thủ tục hành chính, hình thức hay biện pháp xử lý hành chính mà có thể áp dụng đối với các hành vi đó theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành, bao gồm cả Luật Sở hữu trí tuệ và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
    Khái niệm biện pháp hành chính, theo nghĩa hẹp, có thể hiểu bao gồm các hình thức xử lý hành vi vi phạm và các biện pháp xử lý hàng hoá xâm phạm, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Theo nghĩa này, biện pháp hành chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính (biện pháp xử lý hành vi xâm phạm) và biện pháp khắc phục hậu quả (biện pháp xử lý hàng hoá xâm phạm) quy định tại Điều 214 của Luật Sở hữu trí tuệ.[3] Thêm vào đó, nhằm để thực hiện các biện pháp hành chính, các quy định về thẩm quyền xử phạt,[4] thủ tục xử phạt[5] và các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính[6] theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...