Tiến Sĩ Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nghiên cứu so sánh giữa pháp luật liên minh châu âu và việt nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU VÀ VIỆT NAM

    CHƯƠNG 1
    GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
    1.1. Lý do lựa chọn đề tài
    Nhãn hiệu, cùng với sáng chế, quyền tác giả và những đối tượng khác của quyền SHTT
    đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Trên thực
    tế, “nhãn hiệu” đã được sử dụng từ khá sớm trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, cụ
    thể là từ thời kỳ Đồ Đá. Quan điểm liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của nhãn
    hiệu nổi bật và nhận được sự ủng hộ của nhiều học giả trên thế giới đã chỉ ra rằng những hình
    thức sơ khai của nhãn hiệu được sử dụng trên gia súc, cụ thể là những người nông dân vào
    thời kỳ này đã biết sử dụng sắt nung nóng để đánh dấu lên những con vật thuộc sở hữu của
    mình. Thực tế này đã được khắc họa lại trên các họa tiết, các nét vẻ trên các vách đá hay trên
    tường ở Ai Cập cổ đại. một hình thức “đánh dấu” khác cũng được sử dụng trên vật nuôi là
    hình thức cắt tai xuất hiện ở Madagascar. Mặc dù vậy, phải đến những năm 1800, pháp luật
    về nhãn hiệu mới thật sự được ban hành lần đầu tiên ở Anh Quốc và những vụ việc đầu tiên
    liên quan đến tranh chấp về nhãn hiệu được giải quyết tại các Tòa án. Sau đó, vấn đề bảo hộ
    nhãn hiệu nói riêng và quyền SHTT nói chung đã được thể chế hóa một cách mạnh mẽ trong
    nhiều điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật quốc gia. Những sự cố gắng đó hiển nhiên
    đã thể hiện được bước tiến bộ vượt bậc trong việc bảo hộ nhãn hiệu ở từng quốc gia cũng
    như trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một khía cạnh pháp lý quan trọng của pháp
    luật về nhãn hiệu chưa được đề cập trong một thời gian khá dài, đó là vấn đề bảo hộ nhãn
    hiệu nổi tiếng – những nhãn hiệu được biết đến và sử dụng rộng rãi trên toàn cầu hoặc ít nhất
    là trong một quốc gia hay một khu vực địa lý nhất định.
    Rõ ràng là sự thiếu vắng của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã mang lại những
    khó khăn nhất định cho thực tiễn sử dụng và bảo hộ đối với nhiều nhãn hiệu nổi tiếng. Trong
    nhiều năm qua đã có không ít những tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh liên quan đến
    nhãn hiệu nổi tiếng. Việc giải quyết những tranh chấp này chủ yếu được thực hiện dựa trên
    án lệ ở các nước theo truyền thống Thông luật hay dựa trên các quy định pháp luật liên quan
    ở các nước theo truyền thống Dân luật. Điều này vô hình chung đã mang lại nhiều thách thức
    cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng,
    đồng thời cản trở quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
    nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng cũng như tăng cường và đảm bảo tính thống nhất, tính hiệu quả
    3
    và sự khả thi của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, việc xây dựng một thiết chế pháp lý mang
    tính toàn cầu bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự
    phát triển hệ thống pháp luật về nhãn hiệu trong môi trường pháp lý quốc gia cũng như quốc
    tế.
    Học thuyết pháp lý quốc tế liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên được thể chế
    hóa trong Công ước Paris vào năm 1925. Ngày nay, học thuyết này trở nên đặc biệt quan
    trọng trong một thế giới mà các hoạt động tiếp thị và quảng bá thương mại toàn cầu kh ông
    ngừng gia tăng. Việc tạo ra một thương hiệu toàn cầu ngày càng trở nên dễ dàng hơn rất
    nhiếu thông qua các kênh thông tin mới, tiết kiệm và có thể tiếp cận từ xa. Trong khi các biên
    giới và ranh giới chính trị giữa các quốc gia có vẻ như đang gây ra không ít những trở ngại
    cho sự tự do đi lại của các cá nhân trên toàn cầu thì chúng cũng không thể nào ngăn cản được
    dòng chảy tự do của thông tin. Như vậy, một nhãn hiệu có thể được đồng thời chuyển tải đến
    bất kỳ nơi nào để đến với người tiêu dùng cũng như toàn thể công chúng qua nhiều kênh
    thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Bằng cách đó, một nhãn hiệu có thể nhanh chóng được
    biết đến rộng rãi trên nhiều thị trường trên thế giới bất chấp những hạn chế đối với sự di
    chuyển của cá nhân.
    Có thể thấy rằng nhãn hiệu nổi tiếng đã được công nhận như là một trong những hình thức
    quan trọng nhất của hệ thống nhãn hiệu như đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc
    gia lẫn trong các Điều ước quốc tế. Cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tiếp tục được
    củng cố và phát triển theo thời gian nhờ vào sự nhận thức về tầm quan trọng của nhãn hiệu
    nổi tiếng không ngừng gia tăng trên toàn cầu cũng như sự phát triển của vai trò của nhãn hiệu
    nổi tiếng trong hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù vậy, những vấn đề pháp lý này vẫn còn
    là những khái niệm khá mới mẻ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang và kém
    phát triển, trong đó có Việt Nam.
    Với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ gia nhập
    vào thị trường nội địa của Việt Nam. Họ sẽ mang theo nhiều nhãn hiệu nước ngoài, trong đó
    bao gồm nhãn hiệu nổi tiếng, không chỉ vào thị trường nội địa mà còn vào trong hệ thống
    pháp luật quốc gia. Ngày nay, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nhãn hiệu nổi tiếng toàn cầu
    xuất hiện trong các siêu thị của Việt Nam như SONY, TOYOTA, COCA-COLA,
    MICROSOFT, NOKIA Những nhãn hiệu này không chỉ đại diện cho tài sản của doanh
    nghiệp nước ngoài mà còn trở thành yếu tố quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia nơi
    chúng được đầu tư. Chẳng hạn, giá trị thương mại của nhãn hiệu COCA-COLA được tính
    toán vào khoảng 33,4 tỉ Đô là Mỹ năm 1993 và lên đến hơn 70,0 tỉ Đô là Mỹ vào năm 2010
    (trở thành thương hiệu có giá trị cao nhất toàn cầu trong năm). Điều này chứng tỏ rằng giá trị
    kinh tế của quyền SHTT, và đặc biệt là nhãn hiệu, đang đóng một vai trò quan trọng trong sự
    4
    phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế thế giới. trong khi đó, nhìn lại thực
    tế ở Việt Nam, có thể thấy rằng cơ chế bảo hộ và thực thi quyền SHTT vẫn còn là một bức
    tranh mờ nhạt. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc ban hành nhiều văn bản luật
    và những quy định mới, song hiện tượng xâm phạm hay vi phạm quyền SHTT vẫn tiếp tục là
    những thách thức to lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền và đối với các chủ thể quyền
    SHTT. Pháp luật về nhãn hiệu có vẻ là lĩnh vực chịu thách thức nhiều hơn cả bởi vì ngày
    càng có nhiều tranh chấp và khiếu nại được đưa ra trước cơ quan có thẩm quyền liên quan
    đến hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
    Ở Việt Nam, hầu hết mọi người không có nhiều kiến thức và thông tin liên quan đến nhãn
    hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn, nhãn hiệu HONDA thường được sử dụng một cách thông dụng để
    chỉ tất cả các phương tiện xe gắn máy mà không có sự phân biệt nào đối với các nhãn hiệu
    mà chúng mang, dù rằng các nhãn hiệu đó không phải là HONDA và cũng không giống
    nhau. Điều này có vẻ như là một thực tế phổ biến và nó tồn tại trong một thời gian khá dài.
    Và với tình huống xảy ra như thế, chúng ta buộc phải trả lời một số câu hỏi quan trọng, ví dụ:
    (1) Có bất kỳ sự xâm phạm nào đối với quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu trong ví
    dụ liên quan đến nhãn hiệu HONDA này?
    (2) Liệu chủ sở hữu nhãn hiệu HONDA có quyền khiếu nại yêu cầu bảo vệ quyền
    lợi của họ liên quan đến nhãn hiệu này không?
    (3) Làm thế nào để họ có thể bảo vệ được các quyền lợi chính đáng của mình tại
    Việt Nam?
    Những câu hỏi này không đơn giản và câu trả lời có được tùy thuộc vào các tình huống
    pháp lý cụ thể. Chẳng hạn, chúng ta có thể sẽ đặt ra vấn đề rằng liệu HONDA có phải là nhãn
    hiệu nổi tiếng, rằng có văn bản pháp luật nào liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam
    không, và nếu có, thì pháp luật đặt ra những yêu cầu cụ thể nào trong từng trường hợp?
    Cần lưu ý rằng trên thực tế có một vài sự phân loại không chính thức đối với nhãn hiệu
    được bảo hộ ở Việt Nam dựa trên các quyết định cụ thể của cơ quan có thẩm quyền, và đồng
    thời cũng có những quy định riêng biệt trong Luật SHTT năm 2005 liên quan đến nhãn hiệu
    nổi tiếng. Tuy vậy, những chuẩn mực pháp lý chung dùng để đánh giá và công nhận nhãn
    hiệu nổi tiếng vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và chính xác. Hầu hết mọi người
    trên thực tế sẽ không thể trả lời được câu hỏi “nhãn hiệu nổi tiếng là gì?”. Họ thường có thể
    sẽ nhầm lẫn giữa sự nhận biết của cộng đồng đối với nhãn hiệu với giá trị thương mại cao
    của chúng. Một vài người có thể cho rằng một nhãn hiệu sẽ được coi là nổi tiếng ở nơi nào
    mà có nhiều người có thể nhận biết về nó. Trong khi một số khác có thể sẽ không quan tâm
    đến lý do tại sao một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng. Họ sẽ chỉ đơn giản đưa ra câu trả lời
    5
    theo chủ ý cá nhân của họ. Do vậy, hiện nay khó có thể tìm ra được một khái niệm chung về
    “nhãn hiệu nổi tiếng” ở Việt Nam. Tác giả sẽ quay trở lại những vấn đề pháp lý liên quan đến
    nhãn hiệu HONDA sau khi đã nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản và
    những phân tích so sánh ở các phần sau của Luận án.
    Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã cố gắng tạo ra một hệ thống
    những quy định chung về quyền SHTT trong BLDS 1995 và quyền SHCN trong Nghị định
    số 63/CP năm 1996, như là những nền tảng pháp lý đầu tiên của pháp luật Việt Nam liên
    quan đến mảng SHTT. Chúng cũng có thể được coi là nguồn cơ bản của pháp luật nhãn hiệu
    Việt Nam ở giai đoạn này. BLDS 1995 sau đó đã được bổ sung, sửa đổi năm 2005 và được
    thay thế bởi BLDS 2005. Tiếp theo đó, cuối năm 2005, Việt Nam đã tiếp tục ban hành một
    văn bản pháp luật duy nhất và thống nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT.
    Ngoài ra, những quy định của pháp luật về nhãn hiệu có thể được tìm thấy ở các văn bản
    pháp lý khác được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Khoa học, Công nghệ và
    Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp
    Năm 2006, đã có khá nhiều sự kiện trọng đại xảy ra có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
    đất nước cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, sự kiện
    quan trọng nhất có thể kể đến là quá trình đàm phán gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế
    giới (WTO) của Việt Nam đã thành công tốt đẹp, Việt Nam đã trở thành thành viên chính
    thức thứ 150 của Tổ chức này. Đây chính là một bước ngoặc lớn trong quá trình phát triển
    của lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, một số sự kiện khác cũng đã diễn ra và có ảnh hưởng mạnh
    mẽ đến hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ của nước ta, đó là sự kiện Việt Nam chính thức
    trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid vào ngày 11/04/2006 và ngày 11/07/2006 thì
    Nghị định thư đ phát sinh hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam; đó là sự bắt đầu hiệu lực của một
    đạo luật đầu tiên về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam vào ngày 01/06/2006.
    Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ mô
    nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn
    mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù đã có khá
    nhiều các quy định pháp luật cụ thể được ban hành, song cơ chế đảm bảo thực thi các quy
    định đó còn khá hạn chế, hiệu quả của quá trình áp dụng pháp luật chưa cao.
    1.2. Mục tiêu nghiên cứu
    Như đã đề cập ở trên, nhãn hiệu nổi tiếng và những vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo
    hộ nhãn hiệu nổi tiếng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng ở Việt Nam. Vì vậy, Luận
    án này hướng đến hai mục đích chính. Thứ nhất, Luận án sẽ là một đóng góp đáng kể vào hệ
    thống lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng không những trên phương di ện toàn cầu mà, quan trọng
    6
    hơn, còn tập trung vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Điều này nhằm giúp những chủ thể
    liên quan có thể nhận biết được nhãn hiệu nổi tiếng trong thị trường để có thể phân biệt
    chúng với các nhãn hiệu thông thường khác. Thứ hai, thông qua sự phân tích và đánh giá cơ
    chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh pháp lý quốc tế nói chung và trong
    những hệ thống pháp luật quốc gia cụ thể để rút ra những cách thức phù hợp nhằm củng cố
    và tăng cường hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
    Để có thể đạt được những mục đích nêu trên, Luận án sẽ phải giải quyết được những
    nhiệm vụ cụ thể sau đây:
    Một là, Luận án phải giới thiệu được một cách khái quát những kiến thức lý luận cơ bản
    về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Điều này sẽ giúp mang lại câu trả
    lời cơ bản nhất cho câu hỏi thế nảo là nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh toàn cầu.
    Hai là, Luận án sẽ phải thực hiện được một sự so sánh khá đầy đủ và cơ bản giữa hai hệ
    thống pháp luật của EU và Việt Nam về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
    Ba là, Luận án phải phân tích được tình huống thực tế của Việt Nam liên quan đến bảo hộ
    nhãn hiệu, đặc biệt tập trung vào nhãn hiệu nổi tiếng, và đánh giá hiệu quả của hệ thống pháp
    luật hiện hành cũng như những thách thức đặt ra cho Việt Nam trong quá trình hội nhập vào
    hệ thống thương mại toàn cầu.
    Cuối cùng, từ những phân tích nói trên, Luận án sẽ đề xuất những giải pháp hợp lý và
    khoa học nhằm củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng.
    1.3. Phạm vi nghiên cứu
    Cần khẳng định rằng Luận án tập trung chủ yếu vào kiền thức lý luận và những vấn đề
    thực tiễn liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như
    là một phần riêng biệt trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu. Theo đó, Luận án bắt đầu bằng
    cái nhìn tổng thể về khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng ở góc độ lý luận và đi vào phân tích các
    thiết chế pháp lý quốc tế quan trọng có liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như
    Công ước Paris, Hiệp định TRIPs Quá trình này bao gồm cả sự phân tích và so sánh những
    vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến khái niệm và cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như
    hệ thống thực thi của nó trong hệ thống pháp luật quốc tế và một số quốc gia. Nhìn chung
    Luận án đề cập chủ yếu nhãn hiệu nổi tiếng, và trong một chừng mực nhất định có liên hệ
    đến nhãn hiệu rất nổi tiếng (famous trademarks) và nhãn hiệu có danh tiếng (trademarks with
    a reputation). Tuy nhiên, những khía cạnh khác của quyền SHTT nói chung cũng được tham
    chiếu đến nhằm mục đích so sánh hoặc làm rõ thêm những vấn đề lý luận liên quan đến nội
    dung của Luận án.
    7
    Phạm vi nghiên cứu của Luận án thống nhất và phù hợp với mục tiêu nghiên cứu đã được
    xác định để đảm bảo rằng những nhiệm vụ chính của Luận án được giải quyết một cách thỏa
    đáng.
    Do sự hạn chế về thời gian nghiên cứu và phạm vi rộng lớn của vấn đề nghiên cứu, Luận
    án sẽ chỉ tập trung nghiên cứu và so sánh đối với hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam.
    Theo đó, đối với hệ thống pháp luật EU, Luận án sẽ chỉ dừng lại ở việc tiếp cận và phân tích
    các quy định của pháp luật Liên minh cũng như các bản án và quyết định của Tòa án Công lý
    châu Âu liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu có danh tiếng. Luận án cũng đồng
    thời tham chiếu một cách hạn chế đến một số hệ thống pháp luật quốc gia như Vương quốc
    Anh, Đức và Pháp và một số quốc gia khác. Ngoài ra, hệ thống pháp luật Hoa kỳ cũng được
    đề cập một cách hạn chế trong những bối cảnh phù hợp.
    1.4. Phương pháp nghiên cứu
    Phương pháp pháp lý truyền thống
    Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu chính của Luận án, tác giả vận dụng phương pháp pháp
    lý truyền thống trong việc tiếp cận và nghiên cứu các quy định liên quan đến việc bảo hộ
    nhãn hiệu nổi tiếng được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các văn bản pháp luật quốc
    gia bao gồm Công ước Paris, Hiệp định TRIPs, Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của
    EU, Quy chế về Nhãn hiệu cộng đồng của EU, Luật SHTT Việt Nam cũng như pháp luật
    nhãn hiệu của một số quốc gia châu Âu cụ thể.
    Ngoài ra, các án lệ cũng là một loại nguồn quan trọng được sử dụng trong Luận án nhằm
    giải thích các quy định của pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng cũng như làm rõ cách thức mà
    pháp luật được áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, ở khía cạnh pháp luật EU,
    thông qua việc nghiên cứu các vụ việc cụ thể như vụ General Motors hay vụ Davidoff Luận
    án sẽ giúp người đọc hiểu được cách thức mà quy định tại Điều 4 và Điều 5 của Chỉ thị về
    thống nhất pháp luật nhãn hiệu của EU được giải thích và áp dụng. Ở khía cạnh của pháp lu ật
    Việt Nam, mặc dù không có nhiều vụ việc liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực
    tế, nhưng tác giả cũng đã cố gắng giới thiệu và phân tích một số vụ việc điển hình như vụ
    McDonald’s hay vụ Shangri-La để làm sáng tỏ cách thức mà cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng được giải thích và vận hành ở Việt Nam.
    Như vậy, phương pháp giáo điều pháp lý hay phương pháp pháp lý truyền thống được ưu
    tiên sử dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của Luận án, đặc biệt là ở chương 3 và chương 4.
    Những phân tích và đánh giá thông qua việc sử dụng phương pháp này để nghiên cứu và làm
    sáng tỏ các quy định của pháp luật và các án lệ ở chương 3 đóng vai trò đặc biệt quan trọng
    đối với những sự so sánh được thực hiện ở chương 4 của Luận án.
    8
    Phương pháp pháp lý so sánh
    Như đã xác định ngay trong tiêu đề và trong mục tiêu nghiên cứu, Luận án được xác định
    là một công trình nghiên cứu so sánh. Do đó, phương pháp pháp lý so sánh được sử dụng như
    là một phương pháp nghiên cứu chủ đạo xuyên suốt nội dung của Luận án. Tuy nhiên, tùy
    thuộc vào phạm vi tiếp cận cụ thể của từng chương, phương pháp này được sử dụng ở mức
    độ khát nhau ở những phần khác nhau. Phương pháp pháp lý so sánh đóng vai trò quan trọng
    nhất trong nội dung của chương 4 bởi vì đây là chương tập trung chủ yếu vào việc so sánh
    giữa hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng. Sau khi đã nghiên cứu cẩn thận hệ thống pháp luật của EU và Việt Nam ở chương 3,
    chương 4 sẽ tiếp tục một cách hệ thống bằng việc so sánh các nội dung cụ thể được quy định
    bởi hai hệ thống pháp luật để phân tích và lý giải những khác biệt và tương đồng, những
    thành tựu và hạn chế của từng hệ thống. Sự so sánh được thực hiện dựa trên những vấn đề
    pháp lý quan trọng liên quan đến cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như cách thức xác định
    nhãn hiệu nổi tiếng, các căn cứ pháp lý của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ
    đối với nhãn hiệu nổi tiếng cũng như sự thực thi của cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng. Những phân tích so sánh được thực hiện ở chương này sẽ trở thành nền tảng lý luận
    quan trọng cho những đề xuất, kiến nghị cho Việt Nam trong chương tiếp theo (chương 5).
    Phương pháp pháp lý lịch sử
    Trong Luận án, phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng trong từng phần cụ thể ở từng
    chương nhất định tùy thuộc vào nội dung của các vấn đề được giải quyết. Trước hết, cần thiết
    phải thực hiện một nghiên cứu khái quát về quá trình phát triển mang tính lịch sử của hệ
    thống pháp luật của EU và Việt Nam để cung cấp một cái nhìn tổng thể và một bức tranh sơ
    lược về bối cảnh của hai hệ thống này. Theo đó, phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng
    chủ yếu và trước hết ở các chương 1, 2 và 3 để tìm hiểu những nền tảng lý luận cơ bản làm
    cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến đối tượng nghiên cứu của Luận
    án. Ở cấp độ cụ thể hơn, phương pháp pháp lý lịch sử được vận dụng trong quá trình phân
    tích các nội dung cụ thể được trình bày trong các chương. Chẳng hạn, sự xem xét dưới góc
    độ lịch sử đối với sự ra đời và phát triển của học thuyết về nhãn hiệu nổi tiếng thông qua các
    quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật các quốc gia được trình bày ở chương 2, hay
    sự tìm hiểu ở khía cạnh lịch sử của học thuyết về sự lu mờ nhãn hiệu được trình bày ở
    chương 4 đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu và lý giải cơ chế pháp lý hiện tại về bảo
    hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế.
    Phương pháp pháp lý kinh tế
    9
    Phương pháp pháp lý kinh tế được sử dụng một cách phù hợp trong Luận án để làm rõ
    những vấn đề liên quan đến giá trị kinh tế, thương mại của những vấn đề pháp lý đang được
    xem xét như ở c1c chương 1, 2, 4 và 5. Cụ thể, phương pháp pháp lý kinh tế phải được xem
    xét đến khi giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến sự cần thiết phải mở rộng phạm vi bảo
    hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc khi xem xét, đánh giá giá trị thương mại của nhãn hiệu,
    hoặc để xác định các hành vi xâm phạm nhãn hiệu trong các vu kiện dựa trên thiệt hại về
    kinh tế.
    Phương pháp pháp lý xã hội
    Phương pháp pháp lý xã hội có vẻ ít quan trọng hơn so với các phương pháp nghiên cứu
    khác. Tuy nhiên, pháp luật luôn tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố xã hội khác
    và dĩ nhiên sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ bởi các yếu tố đó. Do vậy, khi nghiên cứu và giải
    quyết các vấn đề pháp lý cụ thể, cách thức thông thường được thực hiện là đặt chúng trong
    các mối liên hệ xã hội nhất định để đánh giá sự tương tác giữa chúng với các yếu tố khác.
    Cần thừa nhận rằng có nhiều sự khác biệt giữa các cộng đồng khác nhau trong việc đánh giá
    một vấn đề pháp lý cụ thể do những điều kiện xã hội khác nhau tác động lên chúng. Vì thế,
    nội dung của Luận án được giới hạn và xác định trong mối liên hệ biện chứng giữa pháp luật
    và xã hội.
    Phương pháp pháp lý xã hội được sử dụng trong những phần nhất định của Luận án khi
    cần thiết đánh giá những tác động mang tính xã hội của các quy định của pháp luật. Phương
    pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương 4 và 5 khi so sánh hai hệ thống pháp luật cũng như
    khi đề cập đến thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng và đề
    xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện nó.
    Phương pháp phỏng vấn trực tiếp
    Tất cả các phương pháp nghiên cứu được đề cập ở trên đều cần thiết và hữu ích cho việc
    đạt đến mục tiêu nghiên cứu của Luận án. Tuy nhiên, việc tiếp cận và nghiên cứu thực tiễn
    của hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng vẫn là một thách thức lớn vì
    thiếu thông tin thực tế liên quan đến sự vận hành của hệ thống nhãn hiệu Việt Nam. Ở điểm
    này, có thể nói rằng việc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với các chuyên gia làm việc trong nhiều
    lĩnh vực khác nhau liên quan đến quyền SHTT nói chung và hệ thống nhãn hiệu nói riêng
    chính là một nguồn thông tin bổ sung quan trọng cho công trình nghiên cứu. Vì vậy, trong
    suốt quá trình nghiên cứu của mình, tác giả đã thực hiện ít nhất ba chuyến đi thực tế đến Hà
    Nội để gặp gỡ và thảo luận với các chuyên gia về SHTT của Việt Nam. Tác giả đã có dịp trao
    đổi những vấn đề chuyên môn quan trọng với các chuyên gia vận hành hệ thống nhãn hiệu ở
    Việt Nam của Cục SHTT và Bộ Khoa học và Công nghệ. Ngoài ra, tác giả cũng được tiếp
    10
    cận và học hỏi các kiến thức thực tế từ các luật sư và các chuyên gia nhiều kinh nghiệm về
    lĩnh vực SHTT. Nội dung của những cuộc gặp gỡ và thảo luận đó được thiết kế dựa trên một
    danh mục các câu hỏi giúp làm sáng tỏ các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến nhãn hiệu
    nổi tiếng cũng như để củng cố và làm tăng tính thuyết phục của các kiến nghị, đề xuất hoàn
    thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được đưa ra ở chương 5 của Luận án.
    1.5. Tình hình nghiên cứu
    Trên bình diện quốc tế, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu được thực hiện liên
    quan đến nhãn hiệu nổi tiếng, rất nổi tiếng và nhãn hiệu có danh tiếng. Luận án này được
    thực hiện dựa trên những quan điểm và bình luận trong các sách chuyên khảo và cả các tạp
    chí nghiên cứu pháp lý chuyên ngành. Công trình quan trọng đầu tiên phải được kể đến là
    cuốn sách nổi tiếng thế giới của Frederick W. Mostert, Famous and well-known marks – An
    international analysis. Tác phẩm của Mostert không chỉ giá trị trong việc tìm hiểu cách thức
    nhãn hiệu nổi tiếng được giải quyết ở cấp độ quốc gia trên toàn cầu mà còn đi sâu vào những
    vấn đề pháp lý cụ thể hơn về nhãn hiệu nổi tiếng như định nghĩa về nhãn hiệu nổi tiếng, tiêu
    chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng và rất nổi tiếng, và vấn đề thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế. Nguồn tài liệu quan trọng tiếp theo có tểh kể đến là tác
    phẩm của Jeremy Phillips, Trademark Law: A Practical Anatomy vốn có thể được coi như là
    nền tảng lý luận quan trọng về pháp luật nhãn hiệu nói chung. Nguồn tài liệu quan trọng thứ
    ba là cuốn sách của Christopher Heath và Kung – Chung Liu, The protection of well-known
    marks in Asia. Cuốn sách là một tập hợp những nghiên cứu có giá trị về vấn đề bảo hộ nhãn
    hiệu nổi tiếng được thực hiện bởi một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ các quốc gia châu Âu
    và châu Á. Cuốn sách không những giới thiệu hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi
    tiếng của từng quốc gia châu Á mà đồng thời cung cấp một sự so sánh rất giá trị về cơ chế
    pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng giữa ba hệ thống pháp luật điển hình trên thế giới là hệ
    thống pháp luật Hoa Kỳ, hệ thống pháp luật châu Âu và hệ thống pháp luật châu Á.
    Trong phạm vi của Việt Nam, hiện nay vẫn còn khá ít tài liệu liên quan đến vấn đề nhãn
    hiệu nổi tiếng. Khái niệm này được đề cập một cách hạn chế trong cuốn sách của Tiến sĩ Lê
    Nết, Quyền Sở hữu trí tuệ (năm 2004). Trong Luận án Tiến sĩ của tác giả Lê Mai Thanh,
    Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
    ở Việt Nam (2006) cũng đã tiếp cận một cách khái quát nhất về nhãn hiệu nổi tiếng. Hoặc
    trong Luận văn thạc sĩ với đề tài Well-known trademarks versus dilutive signs – A trans-Atlantic comparative analysis of protection schemes (2004), Phạm Thanh Trà đề cập đến vấn
    đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng chống lại sự lu mờ nhãn hiệu trên cơ sở so sánh giữa pháp luật
    EU và pháp luật Hoa Kỳ. Gần đây nhất có thể kề đến công trình nghiên cứu của tác giả Hà
    Thị Nguyệt Thu, Well-known trademark protection – Reference to the Japanese experience,
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...