Thạc Sĩ Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân ở nước ta hiện nay

Thảo luận trong 'Bảo Hiểm' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU

    Bảo Hiểm Xã Hội là một chính sách lớn của đảng và nhà nước, nó là xương sống bảo đảm ổn định xã hội, nó thể hiện sự phồn thịnh của nền kinh. BHXH góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động khi gặp rủi ro và các khó khăn khác. Thực tế cho thấy, đối tượng tham gia BHXH chủ yếu vẫn là công nhân viên chức nhà nước và người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp. Còn phần lớn lao động vẫn chưa tham gia BHXH,trong đó chủ yếu là nông dân và lao động nông thôn. Mặc dù Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 78% dân số và 74% lao động ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, do vậy mà nông dân và lao động nông thôn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hàng năm nông nghiệp nước ta đã tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nuôi sống xã hội góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển bền vững của đất nước. Nhưng những người nông dân vẫn chưa được hưởng chính sách BHXH để đảm bảo cuộc sống của mình trong những lúc gặp rủi ro hay khi về già không còn khả năng lao động nhưng vẫn cần chi tiêu cho cuộc sống. Vấn đề đặt ra là cuộc sống của những người lao động nông thôn lúc về già ra sao nếu không may họ bị ốm đau, bệnh tật. Điều đó càng tồi tệ hơn nữa với những người không có con, hoặc giả sử có con đi chăng nữa nhưng con cái họ rơi vào cảnh nghèo nàn túng quẫn. Do vậy, một chính sách bảo hiểm xã hội cho người nông dân là hết sức cần thiết, giúp họ yên tâm hơn khi về già không phải phụ thộc quá nhiều vào con cháu, cuộc sống của họ không còn bấp bênh mà sẽ được đảm bảo sự trợ giúp của BHXH.
    Xuất phát từ những phân tích trên đây, sau thời gian thực tập tại phòng Khoa học - Trung tâm Thông Tin Khoa Học - Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam, em đã chọn đề tài :
    "Bảo Hiểm Xã Hội cho nông dân: thực trạng và giải pháp."
    Nội dung chính của đề tài gồm hai phần:
    Phần I : Lý luận chung về Bảo Hiểm Xã Hội.
    Phần II : Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở nước ta hiện nay và một số giải pháp đề xuất về việc triển khai.
    PHẦN I
    LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
    I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
    1. Sự ra đời và phát triển của BHXH
    Khi nền kinh tế phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau do nhiều nguyên nhân giới chủ đã cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn hoặc sinh đẻ, .Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải một lúc bỏ ra nhiều khoản tiền lớn ngoài dự đoán. Vì thế, mâu thuẫn chủ-thợ phát sinh,giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của nhà nước, mặt khác buộc giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thườnh, tránh được những xáo trộn không cần thiết, vì vậy nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng to lớn và nhanh chóng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
    Trong quá trình phát triển của xã hội,đặc biệt là sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá đã làm cho đội ngũ làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hụt hẫng về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm, tuổi già, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bất buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đòi hỏi giới chủ và nhà nước phải có sự đảm bảo cuộc sống cho họ.
    Năm 1850, lần đầu tiên ở nước Phổ ( CHLB Đức hiện nay ) nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó xuất hiện hình thức bắt buộc đống góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Năm 1883 nước Phổ đã ban hành luật bảo hiểm y tế, đến cuối những năm 80 của thế kỷ 19, Bảo hiểm xã hội đã mở ra hướng mới. Sự tham gia không chỉ bắt buộc đối với người lao động đóng góp mà giới chủ và nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
    Mô hình ở Phổ hồi đó đã dần lan sang Châu Âu, sau đó là các nước Mỹ La Tinh, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 20 của thế kỷ 20.
    Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước mới giành độc lập ở Châu á, Châu Phi và vùng Caribe. Hệ thống BHXH hình thành và phát triển rất đa dạng dưới niều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, từng giai đoạn lịch sử. Số nước có hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng tăng.
    Năm 1940 chỉ có 57 nước thực hiện BHXH nhưng đến năm 1993 đã tăng lên 163 nước. Điều đó cho thấy rằng BHXH là một nghành không thể thiếu đối với bất cứ quốc gia nào.
    Ở Việt Nam BHXH đã thực hiện từ thời kỳ pháp thuộc nhưng chỉ hạn chế trong các viên chức làm việc cho pháp.
    Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời mặc dù đời sống kinh tế xã hội hết sức khó khăn và phức tạp nhưng đảng và nhà nước ta vẫn rất quan tâm đến các chế độ đối với người lao động đặc biệt là BHXH mà khởi đầu là sắc lệnh số 54/ SL ngày 1/11/1945 ấn định điều kiện cho công chức hưởng lương hưu trí, chủ yếu áp dụng chế độ hưu bổng cho nhân sỹ, trí thức, cán bộ cách mạng đã già yếu. Tiếp đến là sắc lệnh số 105/ SL ngày 14/6/1946 nhằm ổn định mức trợ cấp hưu bổng cho công chức. Cũng tại hai sắc lệnh này chính phủ đã quy định mức đóng góp của công chức nhà nước vào quỹ hưu bổng. Sau đó sắc lệnh số 29/ SL ngày 12/ 3/ 1947 và sắc lệnh số 77/ SL ngày 22/ 5/ 1950 đã quy định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí, chăm sóc y tế, tai nạn lao động và tiền tuất đối với cán bộ công nhân viên chức. Tuy nhiên thời kỳ này BHXH còn có những hạn chế cơ bản như : đối tượng tham gia còn hẹp ( chỉ cán bộ công nhân viên chức ), việc thực hiện chính sách BHXH còn phân tán không hiệu quả, do đó chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về BHXH kèm theo nghị định 28/ CP ngày 25/ 12/ 1961 trên cơ sở xây dựng hệ thống BHXH mới gồm sáu chế độ :
    -Chế độ ốm đau
    -Chế độ thai sản
    -Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề ngiệp
    -Chế độ mất sức lao động
    -Chế độ hưu trí
    -Chế độ tử tuất
    Nghị định số 234/ HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về việc bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách về thương binh và xã hội. Nghị định này nhằm ưu đãi những người đã có thời gian hoạt động cách mạng hoặc tham gia kháng chiến. Ngày 1/3/1990 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết số 60/HDDBT về việc sửa đổi chế độ trợ cấp đối với công nhân viên chức nghỉ việc vì mất sức lao động. Ngày 22/ 6/ 1993 Chính phủ ban hành nghị định 43/ CP quy định tạm thời chế độ BHXH. Nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH và mở ra loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện, quy định lại năm chế độ ( bỏ chế độ mất sức lao động).
    Ngày 22/6/1995 Chính phủ đã ban hành nghị định 12/ CP về điều lệ BHXH đối với người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế. Điều lệ BHXH mới có sửa dổi bổ xung một số quy định cụ thể, chủ yếu. Là một số điều kiện và mức hưởng trợ cấp BHXH mới. Trong đó quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH được đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và qu định cả vấn đề giải quyết tranh chấp, xử lý những vi phạm BHXH.
    Nghị định 19/ CP ngày 16/ 2/ 1995 của Chính phủ đã quy định lại cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động của cơ quan quản lý BHXH, xoá bỏ tình trạng phân tán, thiếu trách nhiệm trong quản lý trước đây.



    MỤC LỤC
    Trang
    LỜI NÓI ĐẦU . 1

    PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 2
    I. Khái quát chung về BHXH 2
    1. Sự ra đời và phát triển của BHXH 2
    2. Bản chất và những nội dung của BHXH 5
    II. BHXH tự nguyện cho nông dân . 14
    1. Khái niệm chung về BHXH tự nguyện: 14
    2. Những nội dung cơ bản 16
    3. Triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở các nước trên thế giới 26

    PHẦN II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BHXH TỰ NGUYỆN CHO NÔNG DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VỚIMỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT. 30
    I. Sự cần thiết phải BHXH cho nông dân . 30
    1. Vai trò của nông dân và lao động nông thôn trong hệthống kinh tế xã hội ở nước ta 30
    2. Thu nhập của người nông dân và lao động nông thôn 32
    3. Nhu cầu được BHXH của người nông dân 33
    4. Khả năng tham gia BHXH của người nông dân 35
    II. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở nước ta. 36
    1. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện . 36
    2. Đánh giá chung và thực tiễn hoạt động của BHXH cho nông dân ở nước ta thời gian qua . 41
    III. Một số ý kiến đề xuất và việc triển khai BHXHtự nguyện cho nông dân . 42
    1. Phương hướng tiến hành . 42
    2.Tổ chức quảnlý quỹ BHXH tự nguyện cho người nông dân 45
    3. Vai trò của nhà nước và tổ chức bộ máy củacơ quan BHXH tự nguyện. 53
    4. Hoạt động đầu tư tăng trưởng . 55

    KẾT LUẬN 57
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...