Tiểu Luận Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam và phương hướng triển khai

Thảo luận trong 'Bảo Hiểm' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU
    Sau khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển manh mẽ, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, các hoạt động kinh doanh của nghành BH cũng đã từng bước phát triển đáp ứng tích cực nhu cầu của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển của nghành BH được thể hiện qua các mặt:
    + Doanh nghiệp BH hoạt động rộng khắp trong cả nước dưới các hình thức khác nhau như :
    Công ty BH 100% vốn của nước ngoài
    Công ty BH cổ phần
    Công ty BH liên doanh
    Công ty BH của Nhà nước với các công ty trực thuộc, chi nhánh văn phòng đại diện và mạng lưới đại lý .
    Sự phát triển của các công ty BH đã từng bước tạo thuận lợi cho việc tham gia bảo hiểm của mọi đối tượng.
    + Nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới được nghiên cứu đưa ra phục vụ khách hàng, trong đó có nghiệp vụ "Bảo hiểm Nhân thọ". Tuy BHNT mới với hơn 4 năm hoạt động, BHNT còn rất mới mẻ; Tuy nhiên Chính Phủ đã bắt đầu xem BHNT như là một yếu tố quan trọng trong hệ thống tài chính, đặc biệt trong việc huy động nguồn tiền trong nước.Thực vậy, BHNT có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển và hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường Việt Nam, BHNT thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với người phụ thuộc hoặc của cha mẹ đối với con cái. Chính vì thế, BHNT sẽ là gánh vác, chia sẻ những khó khăn về tài chính với bạn và gia đình bạn.
    Do BHNT là xu hướng phát triển tất yếu trong xã hội văn minh, do BHNT có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của mỗi người, nên em đã chọn đề tài: “Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam và phương hướng triển khai”
    Đây là vấn đề rất phức tạp cần được nghiên cứu, lý giải từ nhiều góc độ, nhiều cách tiếp cận khác nhau mới có thể đầy đủ.Trong phạm vi bài viết này, em xin trình bày những kiến thức mà mình đã được học.Tuy nhiên do trình độ còn hạn chế và chưa có kinh nghiệm nên chắc chắn bài viết còn rất nhiều thiếu sót .


    PHẦN I
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHNT
    I. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC DỤNG CỦA BHNT
    1. Khái niệm & đặc điểm:
    a. khái niệm:
    + Về mặt pháp lý: BHNT là bản hợp đồng qua đó, để đổi lấy phí của người tham gia, nhà BH cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người được hưởng một khoản tiền ấn định ( số tiền BH hay trợ cấp) trong trường hợp người được BH chết hoặc còn sống đến một thời điểm được chỉ rõ trong hợp đồng.
    + Về mặt kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ chứa đựng các cam kết và sự thi hành các cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người.
     Như vậy BHNT là loại hình BH bảo đảm cho các rủi ro có liên quan đến tuổi thọ của con người, BHNT có đối tượng tham gia rất rộng lớn, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau.
    Ở Việt Nam BHNT là loại hình BH chỉ liên quan đến các sự kiện xảy ra trong cuộc sống con người. Theo quy định của pháp luật, các bên khi tham gia vào lĩnh vực BHNT phải thông qua một văn bản là hợp đồng BHNT. Hợp đồng BHNT là sự cam kết giữa hai bên, theo đó bên nhận BH (CTBHNT) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên được BH khi có các sự kiện BH xảy ra, còn bên được BH có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng phí BH như thoả thuận theo quy định của pháp luật.( là một dạng hợp đồng song vụ).
    Trong hợp đồng BHNT quy đình rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
    BHNT là một loại của BH con người, nó có đầy đủ đặc điểm của BH con người nói chung và nó cũng có các đặc điểm riêng biệt của BHNT.
    b. đặc điểm của BHNT
    BHNT có các đặc điểm cơ bản sau đây:
    BHNT vừa mang tính chất tiết kiệm, vừa mang tính chất rủi ro. Đặc điểm này là sự khác biệt cơ bản giữa BHNT và BH phi nhân thọ. Nhân dân tiết kiệm khi mua BHNT khác với các hình thức tiết kiệm khác ở chỗ người BH đảm bảo trả cho người tham gia BH hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Ta thấy, số tiền BH được chi trả khi hết hạn hợp đồng và khi khi người được BH sống đến một độ tuổi nhất định thì số tiền đó xem như một khoản tiết kiệm để đầu tư cho tương lai, còn khi người được BH không may gặp rủi ro trong thời hạn BH được ấn định, người được hưởng quyền lợi BH sẽ được nhận những khoản trợ cấp hay số tiền BH từ công ty BH. Tức là khi sự kiện BH xảy ra thì công ty BH phải có trách nhiệm chi trả số tiền BH, không căn cứ vào số phí đóng BH nhiều hay ít.
    BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia BH. Với BH phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia gặp sự cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia, thì BHNT lại đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau như: ổn định cuộc sống khi già yếu (bảo hiểm hưu trí); giúp cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong, là vật thế chấp để vay vốn .
    BHNT có các loại hợp đồng BHNT rất đa dạng và phức tạp. sự đa dạng và phức tạp này thể hiện ngay ở các sản phẩm của BHNT. Và mỗi sản phẩm BHNT cũng có các loài khác nhau, chẳng hạn hợp đồng BHNT hỗn hợp có các hợp đồng thời hạn 5 năm, 10 năm. Thời hạn trong hợp đồng khác nhau sẽ dẫn tới sự khác nhau về số tiền BH, phí BH, phương pháp đóng phí khác nhau . Ngay trong một bản hợp đồng thì mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp.
    Phí trong BHNT chịu tác động tổng hợp của rất nhiều nhân tố vì vậy quá trình định phí khá phức tạp. Trong quá trình định phí phải căn cứ vào nhiều yếu tố như:
    - chi phí khai thác và quản lý hợp đồng.
    - độ tuổi của người được BH
    - Tuổi thọ bình quân của con người.
    - Số tiền BH
    - Thời hạn tham gia.
    - Tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền .
    BHNT có sự ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định.
    Ngoài những điều kiện KT – XH, môi trường pháp lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của BHNT
    Tổng hợp các điều kiện KT – XH và pháp lý ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của BHNT.
    2. Tác dụng của BHNT:
    Là một loại của BH con người, BHNT có đầy đủ tác dụng của BH con người nói chung như:
    Góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình là chỗ dựa tinh thần cho người được BH.
    Góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa người lao động và người sư dụng lao động.
    Thông qua việc thu phí hình thành quỹ BH, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển KT – XH.
    Là công cụ hữu hiệu để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, thực hành tiết kiệm, chống lạm phát.
    Góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như: giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng vốn đầu tư cho giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống tốt đẹp, tiết kiệm có kế hoạch .
    BHNT là loại BH nhân đạo nhất, nó có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của con người. Nó cho phép chúng ta chuyển giao rủi ro của mình cho các công ty BHNT nếu ta sử dụng sản phẩm BHNT. BHNT không chỉ có tác dụng với người được BH và gia đình mà nó còn mang lại lợi ích cho người BH và cả xã hội.
    a. Tác dụng đối với người được BH và gia đình họ:
    Trong cuộc sống hàng ngày, con người có rất nhiều mối lo, xã hội càng phát triển, tiến bộ đòi hỏi bản thân mỗi người phải có suy nghĩ, lo lắng và đặt kế hoạch làm việc, lao động cũng như học tập . để hoà nhập được với xã hội. Ngay cả lúc khoẻ mạnh nỗi lo về tài chính cho con cái vào đại học hay sinh cơ lập nghiệp, nỗi lo khi về hưu, hay chuẩn bị lập gia đình . luôn luôn tồn tại trong mỗi chúng ta. Rồi nỗi lo rủi ro bất ngờ ập đến, khoẻ mạnh đã đành, nữa là ốm đau, thương tật rồi chết, đã không kiếm được tiền còn bao nhiêu chi phí phát sinh. Không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của chính người đó, còn ảnh hưởng đến gia đình và những người phụ thuộc, ngoài ra còn ảnh hưởng đến cả doanh nghiệp (nếu đó là một trong những người chủ chốt).
    Không ai muốn nghĩ đến cái chết nhưng không ai biết được nó sẽ đến với mình lúc nào. BHNT đã và đang được triển khai từ hàng trăm năm nay như là một phương thức đảm bảo đền bù phần thu nhập bị mất và các chi phí đến kỳ phải trả hay hậu quả của cái chết được giải quyết ngay lập tức, bằng tiền mặt và không phải chịu bất cứ loại thuế nào.
    Khả năng của BHNT là làm việc này khi được cần đến nhất – lúc chết – nó cung cấp phần nào sự đảm bảo về tài chính cho hàng triệu con người trên thế giới được như ngày hôm nay.
     Chi phí chôn cất và hậu sự.
    Khi một người chết, một số khoản cần phải chi trả như vay thế chấp, vay cá nhân, nợ mua xe ., ngoài ra còn một số chi phí liên quan đến người chết như viện phí, chi phí khám chữa bệnh ngoài BHYT và các chi phí mai táng liên quan.
    Riêng ở một số nước có một số loại thuế như thuế đánh vào tài sản thừa kế . Vì vậy, BHNT có thể cung cấp tiền mặt cần thiết để trả cho tất cả những chi phí này.
    Ở Việt Nam, tham gia BHNT giúp người dân có một khoản tiền để lo chi phí mai táng cũng như giải quyết những vấn đề liên quan đến tiền bạc sau khi chết.
     Sự bảo trợ những người phụ thuộc.
    Những người phụ thuộc vẫn phải được ổn định cuộc sống, vẫn phải có chi phí gia đình để mua thức ăn, quần áo, các khoản chi khác liên quan đến cuộc sống hàng ngày của họ. BHNT có thể cung cấp tiền để giúp các thành viên trong gia đình cho tới khi họ tìm được kế sinh nhai khác hoặc có thêm thu nhập.
     Chi phí giáo dục
    Một trong những mục tiêu hàng đầu của những bậc cha mẹ trên thế giới là có đủ khả năng tài chính để gửi con họ vào các trường đại học, vì học thức là cái vốn quý nhất mà cha mẹ có thể giành cho con. Những cái chết của bố hoặc mẹ đang làm việc có thể đồng nghĩa với việc giảm nguồn thu nhập của gia đình ảnh hưởng đến việc học của con cái họ. BHNT giúp đỡ để chắc chắn tích luỹ được khoản tiền đảm bảo sự học hành cho con cái. Cha mẹ có thể tham gia BH dài hạn hoặc BH hỗn hợp có thời hạn có lãi để đáp ứng tiền học phí cho con cái họ học đại học ngay cả khi họ còn sống.
     Thu nhập khi về hưu.
    Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có những chính sách, chương trình để đảm bảo cho cá nhân có thu nhập khi về hưu. Mặc dù vậy, số thu nhập này thường không đủ đảm bảo cho một người hưu trí. Hợp đồng BHNT lâu dài đảm nhiệm hai vai trò. Thứ nhất là BH rủi ro cho người được BH trong suốt thời gian làm việc. Sau đó tiền tiết kiệm được tích luỹ có thể được sử dụng làm nguồn thu nhập khi về hưu.
    b. Tác động tới doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh.
    BHNT cá nhân đảm bảo trả một khoản tiền để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh nghiệp, đối tác hoặc người chủ chốt.
    Một doanh nghiệp cũng có thể dùng BHNT để đảm bảo một số chế độ đãi ngộ cho người làm công.
    BHNT cũng đảm bảo sự tiếp tục kinh doanh cho doanh nghiệp nếu chủ doanh nghiệp hoặc những nhân vật chủ chốt của tổ chức này chết. Nếu người chủ doanh nghiệp chết, cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở thành một phần tài sản. Tất cả tài sản bao gồm cả những tài sản từ hoạt động kinh doanh của anh ta chuyển thành tài sản thừa kế của anh ta và tài sản này phải được dùng để trả các khoản nợ, kể cả nợ kinh doanh. Nếu không đủ trả nợ, người thực hiện di chúc buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết trả các khoản nợ. Tất nhiên, việc bản doanh nghiệp với bất cứ giá nào sẽ bị lỗ rất lớn so với giá trị thực tế trên thị trường. Chính vì vậy việc chuẩn bị từ trước một hợp đồng mua bán có thể giải quyết vấn đề rắc rối liên quan đến cái chết đột ngột của nhà kinh doanh. Một bên đồng ý bán toàn bộ tài sản và lợi nhuận trong kinh doanh cho đối tác đồng ý mua quyền lợi với giá đặc biệt. Nếu nhân viên ( hoặc thành viên trong gia đình ) không đủ tiền mua doanh nghiệp thì BHNT là cách phổ biến nhất để cung cấp vốn hoạt động này. Nhân viên sẽ mua hợp đồng BH nhân mạng của chủ sở hữu doanh nghiệp. Anh ta vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí BH và là người hưởng quyền lợi BH. STBH đủ để người đó mua doanh nghiệp.
    c. Tác dụng đối với xã hội:
    Một trong những chính sách để thực hiện tốt kế hoạch tài chính của mỗi quốc gia là bắt đầu ngay trong từng gia đình, vì mỗi gia đình là một tế bào của xã hội.
    BHNT là một trong những phương thức hiệu quả nhất để thực hiện huy động tiết kiệm cá nhân. BHNT giúp cho bản thân mỗi người dân có ý thức tiết kiệm, có ý thức chăm lo đến tương lai. BHNT cũng tạo nguồn vốn đầu tư dài hạn trong nước. BHNT là cách thức huy động vốn đầu tư khá hiệu quả trong dân cư, không những thế mà các hợp đồng đầu BHNT lại là các hợp đồng dài hạn, điều đó đồng nghĩa với nguồn vốn đầu tư dài hạn trong nước.
    Ngay từ khi ra đời, BHNT đã thu hút được một lực lượng lớn lao động trong xã hội, góp phần giải quyết phần nào được nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề bức thiết của xã hội ta hiện nay.
    I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BHNT
    1. Trên thế giới
    Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người thường gặp những rủi ro bất ngờ khó lường trước được. Chính vì vậy, BH ra đời để chia sẻ rủi ro với số đông và một vài người trong số họ gánh chịu. Có thể nói trên thế giới BHNT ra đời từ năm 1583, với hợp đồng đầu tiên được ký kết giữa người được BH là William Gybbon ở Luân Đôn – Anh Quốc. Tuy nhiên mãi cho đến năm 1759, công ty BHNT đầu tiên mới được thành lập ở Châu Mỹ nhưng chỉ bán BH cho các con chiên nhà thờ. Ba năm sau, BHNT được phát triển rộng rãi cho tất cả nhân dân do công ty BHNT đầu tiên của Anh thành lập năm 1762.
    Từ đó đến nay, hàng loạt công ty BHNT ra đời, BHNT không chỉ xuất hiện ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ mà còn xuất hiện ở Châu Á : Nhật năm 1881; Hàn Quốc năm 1905; Singapore năm 1908 .;
    Theo số liệu thống kê năm 1990 trong 100% phí BHNT trên thế giới thì:
    - Phí BHNT ở Châu Mỹ chiếm :34,8%
    - Phí BHNT ở Châu Âu chiếm :31,4%
    - Phí BHNT ở Châu Á chiếm :33,8%
    Trong đó năm thị trường BHNT lớn nhất thế giới là : Nhật, Mỹ, Anh, Pháp và Đức.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...