Luận Văn Báo cáo thực tập tốt nghiệp tổng quan về ngân hàng thương mại

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Thương mại:
    1.3.1. Tạo tiền:
    Người ta cho rằng “một trong những chức năng chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại là tạo và hủy tiền”, liên quan đến các mục đích của các Ngân hàng Thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, thông qua các hoạt động kinh tế cụ thể. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, các Ngân hàng Thương mại không thể không quan tâm, như là một yêu cầu cho chính sự tồn tại và phát triển của mình là tạo tiền. Tạo tiền, cùng với các chức năng khác của Ngân hàng Thương mại hợp thành một hệ thống chức năng, phản ánh các chức năng của Ngân hàng Thương mại. Chức năng này được thực hiện qua các hoạt động tín dụng và đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng Trung ương của mỗi nước.
    Ý nghĩa kinh tế của chức năng tạo tiền của các Ngân hàng Thương mại phản ánh trước hết nhu cầu bên trong của chính hệ thống và trong từng Ngân hàng Thương mại riêng lẻ. Điều hiển nhiên ai cũng phải thừa nhận là
    để có thể hoạt động và đặc biệt cho sự phát triển các hoạt động tín dụng và

    đầu tư của các Ngân hàng Thương mại, yêu cầu bản thân các Ngân hàng Thương mại, bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải tạo điều kiện cho việc tăng trưởng nguồn vốn, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, năng lực của hệ thống Ngân hàng Thương mại trong việc tạo tiền không chỉ đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân các Ngân hàng Thương mại mà còn mang ý nghĩa kinh tế to lớn: với một hệ thống tín dụng năng động có vai trò cực kỳ quan trọng như người mở đầu, người tham gia và có khi là người nâng đỡ và quyết định đối với mọi quá trình sản xuất. Nếu tín dụng không tạo ra được tiền nhằm mở ra các quy trình sản xuất, và với các hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp không thể tiến hành trôi chảy các quá trình sản xuất và do đó không tạo được nguồn tích lũy cần thiết cho chính bản thân Ngân hàng Thương mại và cho nền kinh tế. Đặc biệt cần lưu ý rằng, trong mỗi một doanh nghiệp và mỗi một thành viên trong xã hội, quá trình tích lũy và sử dụng vốn luôn diễn ra không giống nhau, lúc tạm thời thừa và có lúc xuất hiện nhu cầu bổ sung vốn. Góp phần khắc phục tình hình này, vai trò của các Ngân hàng Thương mại chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm sử dụng tốt nhất vốn tạm thời thừa của các doanh nghiệp và cá nhân và hơn nữa là của nền kinh tế và cũng đồng thời bổ sung kịp thời nhu cầu vốn khi thiếu.
    Mặc khác, xét ở mức độ nền kinh tế, bao giờ và lúc nào cũng phải tôn trọng một quy tắc quan trọng là cung tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện và những hậu quả của nó đương nhiên nền kinh tế phải gánh chịu. Trong ý nghĩa đó, các Ngân hàng Thương mại có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách này, trong mối quan hệ với hệ thống Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước. Tín dụng Ngân hàng trong trường hợp này thực hiện vai trò của nó như là một kênh dẫn để thông qua đó, tiền cung ứng được tăng lên hoặc giảm xuống phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.

    1.3.2. Thanh toán:
    Bên cạnh chức năng tạo tiền, các Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một chức năng quan trọng khác là đưa ra các cơ chế thanh toán và thực hiện trong thực tế chức năng đó. Ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc ở trong nước được thực hiện bằng phương pháp bù trừ, thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và trong cùng một Ngân hàng thì chỉ là một động tác làm chuyển dịch vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác và chỉ nếu 2 Ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải được thực hiện thông qua thanh toán bù trừ. Đương nhiên, quá trình này sẽ trở nên phức tạp, tốn thời gian và chi phí giao dịch, khi việc thanh toán bù trừ lại diễn ra giữa các Ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau trong nước. Một công việc phức tạp như vậy chỉ có thể được tiến hành thông qua các Ngân hàng đại lý của họ hoặc bằng phương pháp thanh toán bù trừ qua Ngân hàng Nhà nước tại đó, về phương pháp thanh toán cũng giống như thông qua các Ngân hàng đại lý. Thực ra, khi mà hệ thống Ngân hàng đại lý phát triển, khối lượng thanh toán bù trừ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm đi một cách tương ứng. Ở Mỹ, trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển của các Ngân hàng đại lý, việc bù trừ thông qua hệ thống dự trữ liên bang khu vực chỉ chiếm không đầy một nửa trong hệ thống thanh toán.
    Trong quá trình hiện đại hóa các phương pháp công nghệ, các Ngân hàng Thương mại từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác. Do đó sẽ từng bước làm cho quá trình thanh toán bù trừ được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao. Trong các công nghiệp hóa, hiện tại có những đổi mới quan trọng và được đưa ra ứng dụng, theo hướng hoạt động Ngân hàng không dùng séc hoặc mở rộng hơn, nền kinh tế không dùng séc, nghĩa là họ sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử và chính điều này đưa đến việc không sử dụng séc

    Ngân hàng, vốn đã từng được sử dụng rộng rãi và trên cơ sở đó loại khỏi các công việc có liên quan trong việc phát hành sử dụng séc. Các nước nói trên đã đưa vào thực nghiệm một hệ thống sử dụng thẻ, giống như thẻ tín dụng đang được dùng trong các cửa hàng bán lẻ. Từ đó họ có thể tiến hành nối mạng các máy tính của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện việc chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nét thuận lợi cơ bản của hệ thống này là với một hệ thống vi tình đặt trong các Ngân hàng, thẻ tín dụng có thể được dùng để rút tiền từ một tài khoản nhất định, thực hiện việc ký thác, thanh toán công nợ và chuyển giữa tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc của cùng một chủ tài khoản.
    1.3.3. Huy động tiết kiệm:
    Trong số các dịch vụ của Ngân hàng Thương mại, dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt đối với tất cả dân cư trong nước thuộc các khu vực của nền kinh tế là bằng cách đáp ứng những điều kiện và các công cụ thuận lợi cho việc chuyển và rút tiền tiết kiệm một cách dễ dàng, nhằm thực hiện các mục đích có tính chất xã hội rộng lớn. Vì thế mà huy động tiết kiệm đã trở thành một chức năng quan trọng của Ngân hàng Thương mại nhằm tạo điều kiện cho người gửi tiền có được các khoản thu nhập danh nghĩa thông qua lãi suất với mức độ an toàn và hình thức thanh khoản cao. Với số vốn huy động được, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả năng sản xuất và vào các mục đích cá nhân khác. Phần lớn tiền gửi tiết kiệm đều được thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại.
    1.3.4. Mở rộng tín dụng:
    Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của Ngân hàng Thương mại là mở rộng tín dụng, đương nhiên với các điều kiện và nguyên tắc tín dụng, với các khách hàng đáng tin cậy. Chức năng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại được hình thành từ rất sớm, ngay từ khi hình thành các

    Ngân hàng Thương mại. Trong thời kỳ này, những người tổ chức các Ngân hàng Thương mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để tiến hành cho vay, coi đó như là một nhu cầu chủ yếu trong việc duy trì và mở rộng hoạt động của mình.
    Thông qua công tác tín dụng, các Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
    Các nhà kinh tế thường cho rằng, việc cung ứng vốn tín dụng được coi như là việc thực hiện một trong số sản phẩm của các Ngân hàng Thương mại cùng với các sản phẩm khác. Tuy nhiên xét trên ý nghĩa thực sự của sản phẩm, chúng ta có thể coi đó như là một “sản phẩm đường vòng” hoặc “sản phẩm gián tiếp”, khi đem so sánh với những sản phẩm trực tiếp mà ở đó, sản phẩm đưa ra tiêu dùng được tạo ra bắt nguồn từ việc sử dụng trực tiếp lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Khác với sản phẩm trực tiếp, việc cung ứng vốn tín dụng Ngân hàng cũng tạo ra khả năng hình thành sản phẩm có thể tính toán được, giống như công nghiệp thức ăn phải qua thu hoạch và chế biến. Với ý nghĩa của việc so sánh như thế, người ta cho tín dụng Ngân hàng cung ứng cho người dùng cần vốn để mua, chế biến, tổng hợp và cất trữ sản phẩm để sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất nói trên, từ người sản xuất đến người buôn bán, đến người bán lẻ cuối cùng, đến người tiêu dùng, tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện toàn bộ quá trình kinh tế, cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng: người nông dân nhờ có điều kiện được vay vốn họ có thể mua hạt giống, thức ăn, phân bón và các nhu cầu cần thiết khác cho việc thu hoạch và trồng trọt, tín dụng ngân hàng còn tạo ra cho họ khả năng mua sắm vật tư, thiết bị, máy móc và thuê mướn lao động. Các cửa hàng bán buôn và bán lẻ có khả năng dự trữ và vận chuyển hàng hóa đến tay người tiêu dùng không thể không có yếu tố vốn tín dụng

    được các Ngân hàng Thương mại cung ứng cho chính các xí nghiệp sản xuất và ngay cả đối với các xí nghiệp vận tải. Cuối cùng bên cạnh các hoạt động nhằm tài trợ cho nông nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp, Ngân hàng Thương mại tạo điều kiện cho người tiêu dùng thông qua quỹ tín dụng tiêu dùng. Quá trình này được thực hiện bằng việc Ngân hàng Thương mại mở rộng tín dụng tiêu dùng cho việc mua nhà, xe cộ và các trang thiết bị khác.
    Bên cạnh tín dụng ngắn hạn, Ngân hàng Thương mại còn thực hiện tín dụng đầu tư nhằm mở rộng và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, cho chính phủ vay trong trường hợp ngân sách bị thiếu hụt, thông qua việc mua các chứng khoán tài chánh công cộng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...