Báo Cáo Báo cáo thực tập tại NHNN & PTNT Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Báo cáo thực tập tại NHNN & PTNT VN


    I/ Giới thiệu khái quát Ngân hàng nông nghiệp và
    phát triển nông thôn Việt Nam :


    Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNoPTNT Việt Nam) được thành lập tháng 3/1988 khi bắt đầu chuyển đổi hệ thống Ngân hàng từ một cấp sang hai cấp. Ngân hàng nông nghiệp được hình thành từ một số cấp vụ, phòng và chi nhánh cơ sở phụ thuộc Ngân hàng Nhà nước mang nặng tính chất cơ chế tập trung bao cấp. Thời gian đầu mới đi vào hoạt động những khó khăn hạn chế của Ngân hàng nông nghiệp tưởng chừng như không thể vượt qua.Tài sản có rất nhỏ chỉ khoảng 1.500 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là cho vay ngắn hạn, dư nợ trung hạn chỉ chiếm khoảng 5% tổng dư nợ. Hoạt động thuần tuý tín dụng trong nước, 85% dư nợ thuộc doanh nghiệp Nhà nước và gần 15% dư nợ thuộc kinh tế tập thể, hầu như chưa cho vay cá thể hộ nông dân, chưa có hoạt động kinh doanh dịch vụ đa năng.Thực hiện cơ chế lãi suất âm, lãi suất đầu vào lớn hơn lãi suất đầu ra, dẫn đến ngân hàng thua lỗ. Nguồn vốn nhỏ bé trong đó trên 90% vay Ngân hàng Nhà nước, vốn huy động dưới 10%. Các hình thức huy động vốn đơn điệu, trình độ cán bộ nhân viên hạn chế, hầu hết chưa được đào tạo nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại. Trình độ công nghệ lạc hậu, hệ thống kế toán , thông tin thủ công.
    Đứng trước những khó khăn đó, NHNo&PTNT đã tập trung khắc phục những yếu kém này, coi đây là điều kiện để tồn tại và phát triển. Những biện pháp mạnh được áp dụng là: Tập trung chuyển mạnh sang cho vay trực tiếp hộ nông dân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Tỷ trọng dư nợ hộ nông dân từ chỗ hầu như không có, trước năm 91, nay đã tăng 30%- 55% vào những năm tiếp theo, tới nay là trên 65%. Dư nợ doanh nghiệp Nhà nước từ 85% nay giảm dần tới nay còn khoảng 28%. Doanh nghiệp tư nhân, cá thể trên 10% cùng với thay đổi cơ cấu dư nợ, hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh, tới cuối năm 2000 tổng dư nợ đạt gần 4000 tỷ tăng 21 lần so với năm 91; là Ngân hàng thương mại có vốn điểu lệ lớn nhất Việt Nam với 1568 chi nhánh và 25 ngàn cán bộ – nhân viên toàn hệ thống. Từ năm 1992 ngân hàng đã thực hiện cơ chế lãi suất dương, hạch toán tiết kiệm chi phí nghiệp vụ, đưa thu nhập của nhân viên từng bước phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh. Từ năm 93 ngân hàng đã có lãi và lãi tăng trưởng liên tục tới nay. Đẩy mạnh, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn; từ nhiều năm nay vốn tự huy động đã chiếm trên 90% tổng nguồn vốn. Mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh đa năng. Từ đầu năm 1993, thực hiện thanh toán quốc tế kinh doanh ngoại hối. Tới nay, NHNo&PTNT chiếm trên 10% doanh số thanh toán quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, có quan hệ với hơn 600 Ngân hàng đại lý trên thế giới, đã và đang mở các hoạt động thuê mua tài chính kinh doanh vàng bạc, chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ, mua bán nợ. Ngân hàng đã sắp xếp lại bộ máy, tuyển nhân viên có trình độ và giảm khoảng 1/3 biên chế. Tăng cường đào tạo kể cả khảo sát tu nghiệp tại nước ngoài cho nhân viên. Áp dụng và trang bị công nghệ hiện đại, hệ thống vi tính nối mạng tới chi nhánh huyện, tham gia hệ thống SWIFT- Society for Worldwide Inter-bank Financial Telecommunication-(từ năm 1995) thực hiện thanh toán điện tử trong toàn hệ thống, máy rút tiền tự động ATM . Bên cạnh đó Ngân hàng nông nghiệp đã tham gia tích cực các công tác xã hội như: phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, xoá đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào lũ lụt, hỗ trợ tài năng trẻ; tài trợ giải bóng bàn các đội mạnh toàn quốc .
    Theo tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ, tham gia AFTA và chuẩn bị tham gia WTO, trong vòng 8-10 năm tới, các Ngân hàng nước ngoài được thực hiện đầy đủ nghiệp vụ như Ngân hàng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là một cơ hội lớn và một thách thức lớn đối với Ngân hàng nông nghiệp. Mặc dù đã đạt được những thành tựu nói trên, song so với yêu cầu của tiến trình phát triển và hội nhập Ngân hàng nông nghiệp đang còn nhiều những hạn chế đó là :
    + Vốn điều lệ còn hạn hẹp
    + Một số khoản dư nợ không sinh lời do thực hiện cho vay chính sách, nợ khoanh được duyệt nhưng chưa cấp vốn, làm hạn chế khả năng kinh doanh.
    + Chất lượng tài sản có chưa cao
    + Hệ thống kế toán đang áp dụng còn khác biệt so với hệ thống kế toán Ngân hàng quốc tế – trong đó rõ nhất là cách thức tính toán trích lập quỹ rủi ro – dẵn tới không đánh giá đầy đủ hoạt động kinh doanh cũng như không phù hợp với thông lệ quốc tế; các công cụ điều hành như kế hoạch cân đối, quản lý rủi ro chưa phù hợp với Ngân hàng thương mại hiện đại; bộ máy tổ chức cán bộ cồng kềnh, hành chính hạn chế khả năng kinh doanh. Trình độ cán bộ nhân viên còn nhiều bất cập; mặc dù đã có những bước tiến lớn so với 10 năm trước nhưng công nghệ thông tin Ngân hàng còn chưa đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng thương mại hiện đại.
    Quá trình phát triển và hội nhập đang đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam phải có những bước cải cách căn bản và Ngân hàng nông nghiệp cũng đã xây dựng kế hoạch cơ cấu lại nhằm tiếp tục đưa Ngân hàng nông nghiệp vẫn là Ngân hàng thương mại hàng đầu vững mạnh trong cạnh tranh ở Việt Nam cho giai đoạn 2001-2010 tới năm 2010 ngang tầm các Ngân hàng thương mại tiên tiến trong khu vực và có uy tín cả trên thế giới.
    Sau hơn 10 năm phát triển từ một Ngân hàng nhỏ bé yếu kém, Ngân hàng nông nghiệp đã trở thành một trong những Ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam, được tạp chí ASIAWEEK xếp đứng thứ 355/500 Ngân hàng lớn nhất Châu á và thứ 46/50 Ngân hàng lớn nhất Đông Nam á. Đây là một vị thế, nền tảng vững chắc giúp cho Ngân hàng nông nghiệp ngày càng phát triển hơn.
     
Đang tải...