Luận Văn Báo cáo các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động tại tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 28/10/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giới thiệu tài liệu Báo cáo các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động tại tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam
    Giới thiệu chung

    Phần I: Tìm hiểu khái quát chung về xí nghiệp.
    I. Quá trình hình thành và phát triển.
    Ngày 15/1/1956 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Nghị định số 666/TTG thành lập Tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam. Đây là mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời và phát triển của hàng không dân dụng Việt Nam.
    Ngày 24/1/1959 Cục không quân thuộc Bộ quốc phòng được thành lập, hoạt động của hàng không dân dụng Việt Nam do Cục không quân quản lý. Ngày 1/5/1959 tại sân bay Gia Lâm Cục hàng không tổ chức lễ ra mắt đơn vị không quân vận tải đầu tiên đó là Trung đoàn 919 là nòng cốt của hàng không quốc gia và Tổng Công ty hàng không Việt Nam ngày nay.
    Căn cứ vào nghị quyết của ủy ban thường vụ quốc hội. Ngày 11/2/1976 Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định số 27/CP thành lập Tổng cục hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Hội đồng chính phủ. Tổng cục hàng không dân dụng được đặt được dưới sự chỉ đạo lãnh đạo của quận ủy Trung ương và bộ Quốc phòng.
    Tổng cục hàng không đã nhanh chóng tổ chức bộ máy, cơ quan giúp việc theo nề nếp một đơn vị quân đội có cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và các đơn vị sản xuất kinh doanh như: Đơn vị bay 919 ,hệ thống các sân bay, quản lý điều hành bay,các xưởng sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, cơ sở huấn luyện đào tạo.
    Ngày 14/7/1976 thông qua Quyết định số 147/QĐ - TC Tổng cục trưởng Tổng cục hàng không dân dụng ViệtNam đã thành lập xưởng sửa chữa máy bay A76.
    Quá trình hình thành và phát triển gần 30 năm qua của xí nghiệp đã trải qua từng thời kỳ theo cơ cấu phát triển của ngành hàng không Việt Nam.
    Từ năm 1975 - 1990. Đây là thời kỳ mà xí nghiệp máy bay A76 đảm nhận công tác kỹ thuật với số lượng máy bay chủ yếu do Liên Xô chế tạo. Lực lượng lao động chính lúc này là cán bộ công nhân viên kỹ thuật được rút ra từ đoàn bay 919 và A33 thuộc binh chủng không quân điều động về đa số đã trải qua chiến đấu số lượng kỹ sư, thợ kỹ thuật và trang thiết bị còn ít,đội máy bay chủ yếu là:AH2, IL2, IL4, IL18, AH24, JAK40, TY134.
    Trong thời gian này xí nghiệp máy bay A76 chủ yếu bảo đảm được những phần công việc sửa chữa phục vụ ngoài trường máy bay trước và sau khi bay,định kỳ bảo dưỡng, sửa chữa hỏng hóc vừa và nhỏ.
    Do nhu cầu vận chuyển hành khách hàng hóa ngày càng tăng đòi hỏi công tác kỹ thuật luôn đảm bảo có đầu máy bay tốt để sẵn sàng làm nhiệm vụ. Quán triệt được tình hình trên xí nghiệp đã có kế hoạch xây dựng nơi ăn ở làm việc ổn định tại khu đông sân bay Gia Lâm xây dựng khu nhà hiệu nghiệm, mua thêm và lắp đặt máy móc hiệu nghiệm phục vụ kịp thời công tác bảo dưỡng định kỳ, sửa chữa bảo dưỡng cho các loại máy xí nghiệp được giao.
    Kéo dài niên hạn sử dụng cho máy bay IL 18, TY - 134 A & B, IAK 40.
    Chỉ từ năm 1990 - 1995 hiệu nghiệm sửa chữa 15762 khối máy làm lợi và tiết kiệm được nhiều ngoại tệ cho ngành hàng không Việt Nam. Đã từ sản xuất được thiết bị kiểm tra máy móc phục vụ bay như: ép lốp, làm lốp, xe nạp dầu nhờn.
    Thời kỳ 1991 - 1998, đây là thời kỳ mà phần lớn các máy bay thế hệ cũ đã hết niên hạn sử dụng. Ngành Hàng không dân dụng Việt Nam có chủ trương mua sắm và thuê lại cả các loại máy bay hiện đại do các nước phương tây sản xuất như : Loại A320 và ATR - 72 do AIRBUS của cộng hòa Pháp sản xuất, loại B767 do hãng BOING của Mỹ sản xuất mới đáp ứng được nhu cần chuyên chở hành khách. Một mặt xí nghiệp đào tạo bồi dưỡng đội ngũ thợ kỹ thuật để thành thạo sửa chữa và bảo dưỡng phục vụ một số loại máy bay của Liên Xô, một mặt chú trọng tuyển chọn kỹ sư, cán bộ và thợ kỹ thuật có tay nghề cao, ngoại ngữ khá đưa đi học tập chuyển loại kỹ thuật máy bay mới để làm nòng cốt cho xí nghiệp sau này.
    Sửa chữa cho loại máy bay A320, đầu kéo máy bay B767, thang nạp dầu máy bay B767, bàn kiểm tra động cơ máy bay A320, xây dựng trạm sửa chữa bảo hành xe đặc chủng, thuê chuyên gia A320. Xí nghiệp cố gắng gấp rút hoàn thành để đến tháng 5/1996 tiếp nhận đưa vào sử dụng 10 chiếc máy bay A320 và ngày 10/7/1996 chiếc máy bay đầu tiên đã được giao cho Tổng Công ty hàng không Việt Nam tại sân bay quốc tế Nội Bài.
    Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vận chuyển hành khách và hàng hóa hiện nay xí nghiệp đang tiến hành xây dựng và mở rộng nhà sửa chữa các loại máy bay lớn và hiện đại.
    + Từ năm 1998 đến nay; xí nghiệp đã không ngừng tìm mọi biện pháp để nâng cao trình độ của cán bộ quản lý cũng như công nhân viên và công nhân trong xí nghiệp ,tăng trang thiết bị phục vụ cho khâu sản xuất được tốt hơn và chất lượng ngày càng cao hơn.
    Tính đến tháng 05/2002 Tổng công ty Hàng Không Việt Nam đang đưa
    vào khai thác 26 máy bay ,gồm:5 chiếc B767,10 chiếc A320,7 chiếc ATR72 ,2 chiếc A321 và 2 chiếc Fokker vậy nên nhu cầu về bảo dưỡng và sửa chữa máy bay của Tổng công ty là ngày càng cao .
    Tổng Công ty hàng không Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ trong sản xuất cũng như trong kinh doanh, tuy nhiên với tư cách là một đơn vị hoạch toán phụ thuộc của Tổng công ty hàng không nên xí nghiệp máy bay A76 chỉ có quyền tự chủ về mặt kỹ thuật còn về mặt tài chính thì hoàn toàn phụ thuộc Tổng Công ty hàng không Việt Nam. Từ năm 1989 xí nghiệp phải tự lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh tự tiếp cận thị trường, đặc biệt là thị trường đầu vào đảm bảo sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, đảm bảo giờ bay tốt cho các máy bay nhằm tăng doanh thu cho tổng công ty đồng thời cho chính doanh nghiệp tuy còn bỡ ngỡ trước cơ chế thị trường và gặp nhiều khó khăn vướng mắc song xí nghiệp đã khẳng định chỗ đứng của mình và không ngừng phát triển là một bộ phận không thể thiếu được trong ngành Hàng không dân dụng Việt Nam.
    Nhiệm vụ của xí nghiệp là sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ và phục vụ bay song là một đơn vị hạch toán phụ thuộc trong Tổng Công ty HK Việt Nam nên nhiệm vụ đó được thực hiện theo kế hoạch ngoài giờ bay do Tổng Công ty giao. Điều đó có nghĩa là các công việc của xí nghiệp được quy đổi ra gì bay để xây dựng đơn giá thanh toán nội bộ trong đó có đơn giá tiền lương. Trong đó đơn giá tiền lương đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện công tác tổ chức lao động trong xí nghiệp. Đó chính là kết tinh lao động được thể hiện bằng tiền của tập thể cán bộ công nhân viên xí nghiệp theo giờ bay và theo sự an toàn của từng chuyến bay.

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...