Báo Cáo Bàn về phương pháp hạch toán CPSX & tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC




    LỜI MỞ ĐẦU 2

    PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHÂM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 3

    I. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 3


    1. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất. 3

    2. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm. 4

    3. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm. 5

    II. Đối tượng và các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 5

    1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. 5

    2. Các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất: 6

    3. Hạch toán CPSX theo phương pháp kiểm kê định kỳ 17

    III. Đối tượng và các phương pháp tính giá thành sản phẩm: 22

    1. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm. 22

    2. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu. 24

    IV. Kinh nghiệm kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới. 27

    1. Theo hệ thống kế toán Pháp: 27

    2. Tại Mỹ. 29

    PHẦN II: THỰC TRẠNGVÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CPSX VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM 31

    I. Thực trạng về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp việt nam hiện nay. 31

    1. Ưu điểm: 31

    2. Nhược điểm: 31

    II. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 34

    1. Xây dựng hệ thống kế toán chi phí sản xuất linh hoạt 34

    2. Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất 36

    3. Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ 37

    KẾT LUẬN 39


    LỜI MỞ ĐẦU



    Bước sang thế kỷ XXI, xu hướng toàn cầu hoá đặt các quốc gia vào vòng quay của sự cạnh tranh khốc liệt về mọi mặt, đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay đó.

    Để tiến tới việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tê (WTO) trong vài năm tới, đất nước ta khhông ngừng nỗ lực phấn đấu phát triển kinh tế, đổi mới kinh tế cho phù hợp với tiến trình hội nhập của khu vực và quốc tế.

    Một công cụ rất quan trọng phục vụ đắc lực cho việc quản lý kinh tế quốc dân nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng là kế toán . Kế toán giúp cho các doanh nghiệp , các cổ đông, các nhà quản lý thấy rõ được thực chất quá trình sản xuất kinh doanh bằng những số liệu chính xác cụ thể, khách quan và khoa học. Là một trong các thành phần quan trọng của kế toán , hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với chức năng giám sát và phản ánh trung thực , kịp thời các thông tin về chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành của sản phẩm sẽ giúp cho các nhà quản trị chỉ ra được phương án biện pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm, lựa chọn những phương án tối ưu,đồng thời định vị được giá bán sản phẩm, bảo đảm sản xuất kinh doanh có lãi.

    Nhận thức được tầm quan trọng của công tac hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em chọn đề tài: "Bàn về phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp ."

    Nội dung đề cương, đề án môn học bao gồm II phần chính như sau:

    Phần I: Cơ sở lý luận về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp .

    Phần II: Thực trạng và một số kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp Việt Nam.

    PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHÂM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

    I. BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.

    1. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.


    Đối với một quá trình sản xuất, chi phí sản xuất luôn là yếu tố quan trọng quyết định việc hình thành nên sản phẩm. Chi phí sản xuất kinh doanh chính là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quí, năm). Hay có thể nói, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ dể thực hiện quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự chuyển dịch vốn -- chuyển dịch gia trị của các yếu tố vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).

    Với mỗi doanh nghiệp , chi phí là tập hợp các khoản chi phí phát sinh trong một kỳ hạch toán. Tổng số các khoản chi ra trong một kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc đã tiêu dùng hết trong quá trình sản xuất tính vào kỳ hạch toán.

    Vì vậy, cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí của kỳ hạch toán là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp , bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Chi tiêu trong một doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp, chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.

    Tuy chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí . Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng cho hết quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này không được tính vàochi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu( chi phí trích trước). Sổ dĩ có sự khác nhau rõ rệt như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trịcủa từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.

    2. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm.

    Giá thành sản phẩm là biêủ hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoámà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công tácvà sản phẩm lao vụ hoàn thành.

    Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất gồm cả 2 mặt : mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh đều có liên quan đến khối lưọng sản phảm lao vụ, dịch vụđã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.

    Có 2 chỉ tiêu giá thành:

    - Tổng giá thành: là toàn bộ chi phí để đơn vị sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, phản ánh qui mô của doanh nghiệp .

    - Giá thành đơn vị sản phẩm: Là chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành, phản ánh chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện băng tiền toàn bộ các khoản phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc hoàn thành trong kỳ.

    Giá thành còn là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá và là một chỉ tiêu tính toán không thể thiếu được trongnguyên tắc hạch toán kế toán . Giá thành sản phẩm không chỉ gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất tiêu thụ mà còn được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp chứ không bao gồm chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp . Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...