Tài liệu Bàn về mô hình bảo hiến ở Việt Nam Từ giám sát bởi Quốc Hội chuyển sang tài phán bằng tòa án hiến ph

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Bàn về mô hình bảo hiến ở Việt Nam : Từ giám sát bởi Quốc Hội chuyển sang tài phán bằng tòa án hiến pháp




    1. Giám sát hiến pháp hiện hành ở
    Việt Nam - những bất cập và hạn chế


    1.1. Cơ chế giám sát việc tuân thủ hiến pháp hiện hành
    Hiện nay, trên thế giới về cơ bản đang tồn tại ba mô hình giám sát hiến pháp (bảo hiến) thông dụng là giám sát bởi nghị viện/quốc hội (áp dụng ở các nước theo chế độ đại nghị điển hình là nước Anh); giám sát bởi toà án chung (ở nhiều nước, điển hình là Hoa Kì) và giám sát bởi toà án hiến pháp chuyên trách (ở các nước châu Âu điển hình như ở Áo, Đức, Italia). Việt Nam theo mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc giám sát tuân thủ hiến pháp và pháp luật được tổ chức theo cơ chế phân công phân nhiệm từ Quốc hội xuống chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho đến hội đồng nhân dân các cấp, trong đó Quốc hội giữ vai trò là cơ quan giám sát tối cao. Nếu xét riêng phương diện giám sát hiến pháp thì Quốc hội là cơ quan giữ vai trò chính (có sự phân công, phân nhiệm cho các cơ quan trong Quốc hội và các cơ quan nhà nước cấp cao khác). Do đó, có thể coi mô hình giám sát hiến pháp ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa là giám sát bởi Quốc hội.





    Quyền giám sát hiến pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước. Một trong những chức năng thể hiện tính cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội là: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (các điều 83, 84 Hiến pháp năm 1992).
    Nội dung chính của giám sát hiến pháp
    là bảo đảm việc tuân thủ các quy định của hiến pháp trong hoạt động của toàn bộ Nhà nước, trước hết là đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo tinh thần đó, nội dung cơ bản của hoạt động giám sát hiến pháp của Quốc hội tập trung vào các việc sau:
    - Giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất (thứ bậc) của văn bản pháp luật;
    - Giám sát những sơ hở, thiếu sót của
    văn bản pháp luật trong quá trình áp dụng.
    - Xem xét tính tuân thủ hiến pháp và pháp luật (khi ra quyết định áp dụng pháp luật), tính hiệu quả của các văn bản (để khẳng định chất lượng), tính phù hợp của




    * Viện nhà nước và pháp luật Viện khoa học xã hội Việt Nam



    các pháp lệnh, nghị định độc lập (để nâng lên thành luật).
    Hình thức thực hiện quyền giám sát hiến pháp của Quốc hội được thông qua hệ thống các cơ quan theo sự phân công, phân nhiệm. Để phù hợp với điều kiện hoạt động của mình Quốc hội chỉ tập trung giám sát đối với văn bản của các cơ quan nhà nước cấp cao (Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) và thông qua các cơ cấu của mình giám sát đến các cơ quan đặc thù (như Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát hội đồng nhân dân cấp tỉnh). Vì vậy, khi xem xét hoạt động giám sát của Quốc hội, trước hết là nói đến chính hoạt động của Quốc hội và các cơ cấu bên trong của Quốc hội mà Quốc hội và các cơ cấu của Quốc hội có thẩm quyền giám sát trực tiếp theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Tiếp đó, việc giám sát được giao cho các cơ quan nhà nước khác theo hình thức uỷ quyền hay còn gọi là phân công, phân nhiệm. Đó là vai trò giám sát của Chủ tịch nước, Chính phủ, toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân cũng như của hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan, tổ chức theo quy định. Các cơ quan này chịu trách nhiệm tr- ước Quốc hội về hoạt động đó.
    Nói cụ thể hơn việc giám sát được thực hiện theo những hình thức sau:
    a. Quốc hội và các cơ cấu của Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền giám sát.
    Quốc hội và các cơ cấu của Quốc hội thực hiện giám sát đối với Uỷ ban thường



    vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, giám sát Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giám sát Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hội đồng nhân dân các cấp (giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội).
    b. Vai trò giám sát của Chủ tịch nước, Chính phủ, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và hội đồng nhân dân các cấp.
    Theo tinh thần của Điều 83 Hiến pháp
    năm 1992 thì, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, do vậy, phải hiểu rằng Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao không chỉ đối với các cơ quan nhà nước cấp cao đã được phân tích trên đây (như của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao) mà còn đối với các cơ quan nhà nước khác như các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân. Việc giám sát hoạt động của các cơ quan này được phân giao (phân cấp, phân tầng) cho các cơ quan khác nhau thực hiện. Trước hết, là vai trò giám sát của Chủ tịch nước đối với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, vai trò kiểm tra của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước đối với các cơ quan cấp dưới, như Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị



    của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 114
    Hiến pháp năm 1992). Pháp luật quy định
    toà án nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính mà phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật sai trái là nguyên nhân gây ra vụ án thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền sửa chữa, bãi bỏ. Viện kiểm sát nhân dân một thời gian dài từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) thực hiện việc giám sát đối với các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân với tính cách như là một hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Nay Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã bãi bỏ chức năng này của viện kiểm sát nhưng vẫn giữ lại quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. Hội đồng nhân dân bãi bỏ những quyết định sai trái của uỷ ban nhân dân cùng cấp, những nghị quyết sai trái của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp.
    1.2. Những bất cập và hạn chế nhìn từ
    góc độ bảo vệ hiến pháp (bảo hiến)
    Hiện tại, cơ chế giám sát việc tuân thủ
    hiến pháp và pháp luật ở nước ta nếu xét trên



    bình diện bảo hiến (chỉ tập trung vào việc phán xét việc tuân thủ hiến pháp) thì có có quá nhiều bất cập, thể hiện qua các mặt sau:
    - Một là, cơ chế giám sát quá nhiều chủ
    thể và nhiều tầng nấc làm hạn chế và lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của hoạt động đó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...