Luận Văn Bàn về các khoản chi phí dự phòng

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU
    Vấn đề hội nhập đã và đang là vấn đề rất nóng hiện nay, đó không còn là vấn đề riêng lẻ của riêng một quốc gia nào mà nó đã trở thành điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đến giữa năm nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao được với 167 nước trên thế giới, quan hệ thương mại với 224 nước và vùng lãnh thổ, kí kết 87 hiệp định hợp tác phát triển và gần 100 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần cùng với nhiều hiệp định song phương khác. Việt nam đã gia nhập các điều ước quốc tế, trở thành thành viên của các tổ chức chính thức WB, IMF, ADB, ASEAN, tham gia AFTA, CEPT, APEC. Từ năm 2007 trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Là thành viên chính thức của liên đoàn kế toán thế giới (IFAC), liên đoàn kế toán các nước ASEAN (AFA). Cam kết việc minh bạch hoá về cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán, tuân thủ chuẩn mực quốc tế. Chính bởi những điều này mà việc xây dựng đựơc một hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán nói chung và hệ thống chuẩn mực kế toán nói riêng sao cho phù hợp là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên đây không phải là một vấn đề dễ dàng bởi lẽ cả trên giác độ toàn cầu, không riêng gì ở Việt nam hay ở một số nước, xu hướng tiêu chuẩn hoá, hài hoà các chuẩn mực thường gặp phải sự ngăn cản của đặc điểm, trình độ phát triển và tất nhiên có cả lòng tự hào dân tộc của mỗi quốc gia. Do đó đi sâu nghiên cúu và đưa ra giải pháp cho những vấn đề này cũng là một việc rất nên làm hiện nay, và nó cần phải có sự đóng góp từ nhiều phía, từ nhiều góc độ.
    Bàn về những vấn đề của chế độ kế toán cũng là một cách để chúng ta tiếp cận sâu hơn nữa hệ thống kế toán ở Việt nam, nhìn thấy rõ hơn những mặt tốt và mặt còn hạn chế của chế độ để phát huy hay có những giải pháp thích hợp điều chỉnh nhằm ngày một hoàn thiện hệ thống kế toán ở Việt nam. Dự phòng cũng là một trong số những vấn đề đang cần quan tâm ấy. “Bàn về các khoản chi phí dự phòng” sẽ giúp ta có cái nhìn tỉ mỉ, cặn kẽ hơn về khía cạnh này, tạo cho chúng ta một tiền đề để nhìn nhận rõ hơn về bức tranh toàn cảnh của hệ thống kế toán ở Việt nam giai đoạn hiện nay. Mặt khác ngoài vai trò mà dự phòng mang lại cho doanh nghiệp trên các phương diện khác nhau thì cho đến nay nó cũng vẫn là một vấn đề khá mới mẻ, và gây nhiều tranh cãi với các ý kiến trái ngược nhau. Vì thế ở bài làm này em đã chọn đề tài là các khoản dự phòng.
    Với ý nghĩa như trên bố cục bài làm này sẽ được chia làm 2 phần như sau:
    Phần I: Chế độ kế toán hiện hành liên quan đến các khoản chi phí dự phòng .
    Phần II:Một số ý kiến đóng góp với chế độ kế toán hiện hành liên quan đến các khoản chi phí dự phòng .
    Trong quá trình làm đề án do có những hạn chế về trình độ, kinh nghiệm nên bài làm của em sẽ không thể tránh được các sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của thầy và để bài viết được hoàn chỉnh hơn.









    PHẦN I
    CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN HIỆN HÀNH LIÊN QUAN ĐẾN CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG GIẢM GIÁ TÀI SẢN
    Các khoản dự phòng giảm giá tài sản (dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá chứng khoán) lần đầu tiên được đề cập đến trong chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành năm 1995, có sửa đổi vào năm 2001 và sau đó kể từ đầu năm 2002, trích lập các khoản dự phòng được thực hiện theo thông tư số 107/2001/TT – BTC ngày 31/12/2001 và sau đó được thay thế bằng thông tư số 13/2006/TT –BTC ngày 27/3/2006 là văn bản pháp lí có hiệu lực hiện hành về trích lập dự phòng .
    I.Khái niệm, phân loại, vai trò, thời điểm trích lập và nguyên tắc ghi nhận một khoản dự phòng
    1.Khái niệm
    -Có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về dự phòng. Theo phương diện kế toán thì: Dự phòng thực chất là việc ghi nhận trước một khoản chi phí thực tế chưa thực chi vào chi phí kinh doanh, chi phí đầu tư tài chính của niên độ báo cáo để có nguồn tài chính cần thiết bù đắp những thiệt hại có thể xảy ra trong niên độ sau.
    -Có thể phân dự phòng ra làm hai loại như sau:
    +Dự phòng giảm giá tài sản : Dự phòng giảm giá hàng tồn kho (TK159), dự phòng phải thu khó đòi ( TK139), dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn (TK 129,229)
    +Dự phòng phải trả: TK 352
    2.Vai trò dự phòng
    Đến thời điểm này thì công tác kế toán đã thực sự khẳng định được vai trò của mình trên thương trường. Các nhà đầu tư, ngân hàng, khách hàng hay nhà cung cấp khi muốn đầu tư vào bất cứ một doanh nghiệp nào thì điều đầu tiên mà họ quan tâm tới chính là các báo cáo tài chính. Vì thế, vấn đề rất cần thiết đối với các doanh nghiệp hiện nay là các báo cáo tài chính phải có độ tin cậy cao, rõ ràng, minh bạch. Để đáp ứng yêu cầu này, người làm kế toán buộc phải nắm vững các quy định cũng như các nguyên tắc kế toán hiện hành để không chỉ tuân thủ đúng mà còn phải biết vận dụng một cách linh hoạt.
    Một trong những nguyên tắc ảnh hưởng lớn tới quá trình kế toán là nguyên tắc thận trọng. Theo nguyên tắc này, thông tin kế toán được cung cấp cho người sử dụng cần đảm bảo sự thận trọng thích đáng để người sử dụng không hiểu sai hoặc không đánh giá lạc quan về tình hình tài chính của đơn vị. Việc lập dự phòng cũng là một cách nhằm tuân thủ nguyên tắc. Chúng ta cũng biết mỗi một TK được mã hóa trong danh mục tài khoản của hệ thống kế toán đều có một ý nghĩa nhất định. Cũng như vậy thì dự phòng cũng có vai trò nhất định của nó. Xét trên mỗi phương diện thì dự phòng lại có những vai trò riêng.
    -Phương diện kinh tế : Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không thể tránh khỏi giá trị tài sản trên thực tế bị giảm so với giá trị tài sản trên sổ sách. Các khoản dự phòng sẽ làm cho bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp phản ánh chính xác hơn giá trị thực tế của tài sản và nguồn vốn.
    -Phương diện tài chính: Do các khoản dự phòng sẽ làm tăng chi phí (giảm thu nhập) do vậy sẽ làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm xuống nhưng nếu doanh nghiệp có thể hoàn nhập thì lại sẽ làm cho lợi nhuận đó tăng lên. Thực chất, các khoản dự phòng là một nguồn tài sản chính của doanh nghiệp, tạm thời nằm trong các khoản tài sản lưu động và chi phí phải trả trước khi sử dụng thực sự. Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể tích luỹ được một số vốn đáng kể để bù đắp các khoản giảm giá tài sản thực sự phát sinh và tài trợ các khoản chi phí hay lỗ đã được dự phòng khi các chi phí này thực sự phát sinh. Như vậy việc lập dự phòng còn giúp doanh nghiệp hạn chế trường hợp mất khả năng thanh toán khi không thu hồi được nợ hay khi không có nguồn vốn để bù đắp cho số giảm giá trị của tài sản.
    -Phương diện thuế khoá : Các khoản dự phòng làm tăng chi phí (giảm thu nhập) và do đó sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi lợi nhuận của doanh nghiệp giảm tất yếu số thuế mà doanh nghiệp phải nộp trong kì sẽ giảm đi và do đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp thích hợp hơn để quản lí thu, chi, lợi nhuận trong đơn vị để làm sao có hiệu quả nhất cho doanh nghiệp của mình.
    3.Thời điểm trích lập.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...