Tài liệu Bản chất của phạm trù cái đẹp trong mỹ học Hy lạp - La mã cổ đại và biểu hiện của nó trong nghệ thuậ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Bản chất của phạm trù cái đẹp trong mỹ học Hy lạp - La mã cổ đại và biểu hiện của nó trong nghệ thuật
    I. BẢN CHẤT PHẠM TRÙ CÁI ĐẸP TRONG MỸ HỌC HY LẠP - LA MÃ CỔ ĐẠI
    I.1. Đặc trưng thời đại
    Vào thời kỳ Hy lạp - La mã cổ đại thương nghiệp đã xuất hiện và phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự phát triển của kinh tế đã dẫn tới sự phân hóa xã hội sâu sắc, xã hội có sự phân chia đẳng cấp và giàu nghèo. Tư tưởng về tư hữu và chế độ tư hữu xuất hiện, cùng với nó là sự xuất hiện của ý thức cá nhân con người trong tư duy của người Hy lạp - La mã cổ đại.
    Trong lao động đã có sự phân công rõ ràng, đó là việc thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Sự phân công trong lao động, trong đó đặc biệt là việc lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay đã làm xuất hiện trong xã hội một tầng lớp chuyên lao động trong lĩnh vực tư tưởng, trí óc. Đây chính là cơ sở xã hội cho sự ra đời của những tri thức khoa học, triết học, mỹ học.
    Ở thời Hy lạp - La mã cổ đại, mặc dù còn sơ khai nhưng các thành tựu khoa học của toán học, vật lý học, thiên văn học đã góp phần không nhỏ và là cơ sở khoa học cho các triết gia, các nhà khoa học nói riêng, và người Hy lạp - La mã cổ đại nói chung lí giải cho các hiện tượng tự nhiên, vấn đề bản nguyên của thế giới , đưa thế giới quan của người Hy lạp - La mã bước ra khỏi thế giới quan thần thoại đã tồn tại từ thời nguyên thủy.
    Thời Hy lạp - La mã, nhà nước đã xuất hiện dưới hình thức các thành bang. Mỗi thành bang chính là một thành thị, thể chế chính trị theo hai dạng là cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc (tiêu biểu là hai thành bang Spac và Aten). Với thể chế chính trị như thế đã làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ và bóc lột ở Hy lạp - La mã cổ đại không đến mức quá khắc nghiệt, đồng thời tạo điều kiện cho cá nhân con người khẳng định trí tuệ và bản lĩnh của bản thân.
    I.2. Quan điểm triết học của một số triết gia tiêu biểu thời Hy lạp - La mã cổ đại
    Từ những đặc trưng thời đại nêu trên đã quy định nên một số đặc điểm của triết học Hy lạp - La mã cổ đại như: triết học Hy lạp - La mã cổ đại là ý thức hệ của giai cấp chủ nô; triết học thời kì này coi trọng vấn đề con người; những tư tưởng triết học ở giai đoạn này đều xuất hiện một cách tự phát và mang tính biện chứng sơ khai. Đại diện cho triết học thời gian này là các triết gia như Pitago, Heraclit, Đêmôcrit, Xôcrat, Platon, Arixtôt.
    Pitago: Dựa vào các thành tựu toán học, đặc biệt là về các con số, Pitago cho rằng bản chất của thế giới là các con số. Chính trật tự và sự hòa điệu của các con số đã định hình nên thế giới này.
    Heraclit: Được đánh giá là nhà triết học tối nghĩa trong thời đại của mình, triết học của Heraclit mang nhiều yếu tố biện chứng và duy vật. Trước hết ông khẳng định bản nguyên hay nguồn gốc của thế giới này là lửa. Sự vận động của lửa tạo nên sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vạn vật trong thế giới này luôn không ngừng vận động như sự vận động không ngừng chảy trôi của dòng sông. Luận điểm nổi tiếng của ông bàn về vận động chính là “người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”.
    Đêmôcrit: Là nhà triết học theo trường phái nguyên tử luận, Đêmôcrit cho rằng khởi nguyên của thế giới là nguyên tử - vạn vật trong thế giới này có sự đa dạng, phong phú và khác nhau là do sự khác nhau về hình dạng và trật tự sắp xếp của các nguyên tử.
    Xôcrat: Triết học của Xôcrat được Heghen đánh giá là “một bước ngoặt lịch sử vĩ đại”. Khác với các triết gia đi trước Xôcrat không hướng triết học của mình vào vấn đề tự nhiên mà đi vào nghiên cứu về vấn đề con người. Trong vấn đề con người, Xôcrat tập trung nghiên cứu về đạo đức con người và phạm trù trung tâm của đạo đức học Xôcrat là phạm trù đức hạnh. Đức hạnh chính là sự tự chủ, lòng dũng cảm và sự công bằng. Như vậy đạo đức học nói riêng và triết học nói chung của Xôcrat là một nền đạo đức học, triết học duy lí chủ quan.
    Platon: Là học trò của Xôcrat, triết học của Platon là sự kế thừa triết học của Xôcrat theo hướng duy tâm khách quan với nền tảng là học thuyết ý niệm. Ý niệm theo Platon là cơ sở, nguồn gốc, nguyên mẫu của mọi sự vật cảm tính. Hay nói cách khác thế giới vạn vật chính là cái bóng, là bản sao của thế giới ý niệm. Thế giới ý niệm tồn tại vĩnh hằng, bất biến và là bản chất của thế giới hiện thực.
    Arixtôt: Là học trò của Platon song ông lại phê phán học thuyết ý niệm của Platon và ông đưa ra quan điểm nổi tiếng thầy rất quý nhưng chân lý còn quý hơn cả. Ông đã xây dựng học thuyết triết học của mình theo khuynh hướng duy vật. Trước hết Arixtôt đưa ra thuyết bốn nguyên nhân để giải thích tồn tại. Theo ông bản chất của sự vật nằm ngay trong chính bản thân nó. Chính vì vậy mà đối tượng của nhận thức con người chính là thế giới hiện thực khách quan.
    I.3. Quan điểm mỹ học của một số triết gia tiêu biểu thời kì Hy lạp - La mã cổ đại
    Dựa trên cơ sở triết học, mỹ học thời kì Hy lạp - La mã cũng hình thành và phát triển cùng với triết học. Các triết gia cũng chính
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...