Tài liệu Bài Tiểu Luận Môn PP Luận Nghiên Cứu Khoa Học Về Vấn đề Tự học Của Sv

Thảo luận trong 'Tài Chính - Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Nhận xét của giảng viên:



    Mục lục:
    A. PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    2. Mục đích nghiên cứu
    3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
    4. Giả thuyết nghiên cứu
    5. Nhiệm vụ nghiên cứu
    6. Phương pháp nghiên cứu
    7. Phạm vi nghiên cứu
    B. PHẦN NỘI DUNG
    I. Cơ sở lí luận
    1. Khái niệm, tầm quan trọng, ý nghĩa của việc tự học:
    1.1. Khái niệm
    1.2 .Tầm quan trọng của việc tự học
    1.3. Ý nghĩa
    2. Đặc trưng của hoạt động tự học
    2.1. Quá trình học tập của sinh viên về bản chất là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu
    2.2. Tự học và nghiên cứu khoa học
    2.2.1. Tự học
    2.2.2. Nghiên cứu khoa học
    2.3. Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ năng tự học làm cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên
    II. Thực trạng
    1. Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học
    2. Phương tiện và trang thiết bị hỗ trợ cho việc tự học
    3. Chuẩn bị nội dung khi đến lớp học tập
    4. Những hạn chế của việc tự học

    III. Đề ra giải pháp
    1. Đối với sinh viên:
    2. Vai trò của giảng viên trong việc rèn luyện tự học của sinh viên
    3. Một số kỹ năng giúp việc tự học có hiệu quả
    3.1. Kế hoạch học tập
    3.2. Một số kỹ thuật học tập có hiệu quả

    IV. Kết luận và kiến nghị





    II.
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài:
    + Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm của người học. Thực trạng của sinh viên hiên nay chưa ý thức được tầm quan trọng của việc tự học, vẫn còn quen với phương pháp đọc chép, còn thụ động trong học tập.
    + Giúp sinh viên hiểu tự học còn góp phần nâng cao hoạt động trí tuệ của sinh viên trong việc tiếp thu và hiểu tri thức mới, rèn luyện cho sinh viên có cách độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết các vấn đề khó khăn trong quá trình học, giúp sinh viên tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống của mình, và thúc đẩy sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, vươn tới đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, có ước mơ.
    2. Mục đích nghiên cứu:
    + Nghiên cứu thực trạng kĩ năng tự học của sinh viên trường Cao đẳng Công Thương, và đề ra các biện pháp hình thành kĩ năng tự học cho sinh viên nhằm góp phần nâng cao chất lượng quá trình học của sinh viên, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng Công Thương.
    + Lập được kế hoạch học tập, phương pháp học “SQ3R” (SQ3R là viết tắt của tiếng anh ( survey, question, read, recite, review) Quan sát, Hỏi , Đọc, Trả bài và Ôn tập)
    + Giúp sinh viên xây dựng được cho mình kỹ năng học tập có hiệu quả.
    + Kể được một số chiến thuật, phương pháp và kỹ thuật để xây dựng kỹ năng học tập có hiệu quả.
    + Xác định động cơ học tập, xây dựng kế hoạch học tập, tự mình nắm vững nội dung tri thức và tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
    3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
    + Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về vấn đề kĩ năng tự học của sinh viên.
    + Khách thể: Khách thể của đề tài là sinh viên trường cao đẳng Công Thương
    4. Giả thuyết nghiên cứu:
    + Thực trạng kĩ năng tự học của sinh viên Trường Cao đẳng Công Thương còn ở mức độ thấp, sinh viên chưa nắm được yêu cầu và quy trình hình thành các kĩ năng tự học.
    + Nếu trong quá trình dạy học ở trường, giáo viên tổ chức cho sinh viên nắm vững yêu cầu và quy trình hình thành các kĩ năng tự học, cải tiến việc tổ chức quá trình dạy học bộ môn theo hướng dạy - tự học, bản thân sinh viên có ý thức tích cực trong tự học thì sinh viên sẽ nhanh chóng hình thành được các kĩ năng tự học và kết quả học tập của sinh viên sẽ được nâng cao.
    5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
    -Nghiên cứu cơ sở lí luận về kỹ năng và khả năng tự học.
    - Nghiên cứu thực trạng kĩ năng tự học của sinh viên Trường Cao đẳng Công Thương.
    - Đề xuất biện pháp hình thành kĩ năng tự học nhằm cải thiện thực trạng và rút ra kết luận đề xuất ứng dụng.
    6. Phương pháp nghiên cứu:
    + Phương pháp nghiên cứu tài liệu
    + Phương pháp quan sát
    + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
    + Phương pháp phân tích tổng hợp
    -Trong các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu tài liệu là chủ đạo, còn các phương pháp còn lại là phương pháp bổ trợ cho nghiên cứu tài liệu
    7. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu kĩ năng tự học của sinh viên trường Cao đẳng Công Thương.


    PHẦN NỘI DUNG
    I. Cơ sở lí luận:
    1. Khái niệm, tầm quan trọng, ý nghĩa của việc tự học:
    1.1 Khái niệm:
    Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học.
    Tự học là yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo, là con đường nhanh chóng đưa sự nghiệp giáo dục nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
    Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng sự hiểu biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Thực tế giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng cho thấy, nếu sinh viên không chịu khó học tập, đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập thì các thầy giáo, cô giáo có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp vụ vững vàng đến mấy chất lượng học tập cũng không thể cao.


    1.2 Tầm quan trọng của việc tự học:
    Nhiều sinh viên cho rằng chỉ cần cố gắng học là có thể đạt kết quả tốt nhưng thật ra học ở đại học khác ở trung học rất nhiều và biết cách học ở đại học là một điều quan trọng mà có khi con chưa được chú ý đúng mức.
    Hậu quả của phương pháp học không tốt là lãng phí thời gian, thành tích học tập kém hay thậm chí là rớt dẫn đến chán nản, thất vọng và bất mãn.
    Học đối với sinh viên là cuộc sống, là tương lai và thời gian học vô cung quý báu, không thể lãng phí được. Do đó, ngay khi bước vào ngưỡng cửa đại học, cao đẳng hay trung học chuyên nghiệp thì sinh viên nên được hướng dẫn để phát triển kỹ năng học có hiệu quả.
    Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học đại học của sinh viên. Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và nghiên cứu. Việc tự học đối với sinh viên có vai trò hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Tuy nhiên để nhằm bổ sung thêm kiến thức sinh viên thường tạo ra những nhóm học để các bạn dễ dàng trao đổi kiến thức và giúp đỡ nhau trong học tập. Có lớp cho rằng việc tự học có nghĩa là học theo nhóm. Sinh viên cho rằng tự học theo nhóm mang lại hiệu quả cao nhưng cũng có ý kiến cho rằng vào học chỉ lo trò chuyện, cười giỡn không thể tiếp thu được nhiều nên hiệu quả kém. Theo ý kiến của một số sinh viên muốn học nhóm có hiệu quả cao thì cần tuân thủ một số điều quan trọng như không nói chuyện, đùa giỡn trong khi học, phải có một trưởng nhóm có kiến thức vững và biết cách truyền tải lượng kiến thức đó một cách hiệu quả nhất, biết điều tiết “nhiệt độ” học và biết phân bố thời gian học hợp lý và sinh động để các thành viên học không bị chán. Do đó, ngay khi bước vào ngưỡng cửa đại học, cao đẳng hay trung học chuyên nghiệp thì sinh viên nên tập cho mình các phương pháp tự học hiệu quả có thể tiếp thu tài liệu học tốt hơn, đạt thành tích học tập cao hơn và nói chung học có hiệu quả hơn.
    Tóm lại, trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
    Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
    1.3 Ý nghĩa:
    Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà trường. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của sinh viên. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên.
    Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn luyện phương pháp tự học, giúp nâng cao hiệu quả học tập. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.


    2. Đặc trưng của hoạt động tự học :
    2.1. Quá trình học tập của sinh viên về bản chất là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu
    Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là, dưới vai trò chủ đạo của thầy cô, sinh viên không nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở rộng kiến thức . Mặt khác, trong quá trình học tập, sinh viên đã bắt đầu thực sự tham gia hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các mức độ từ thấp đến cao tuỳ theo yêu cầu của chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học này giúp sinh viên từng bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận khoa học, những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp đặt ra.
    2.2. Tự học và nghiên cứu khoa học
    2.2.1. Tự học
    Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng nhưng chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy sinh viên tư duy để thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và đã thành thạo thì hay đặt những dấu hỏi, phát hiện vấn đề và từ đó đi đến có đề tài nghiên cứu.
    2.2.2. Nghiên cứu khoa học
    Việc nghiên cứu khoa học dĩ nhiên tác động trở lại việc học và có phát triển tự học lên đến nghiên cứu khoa học thì mới có thực tiễn để hiểu sâu mối quan hệ giữa tư duy độc lập và tư duy sáng tạo.

    2.3 Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ năng tự học làm cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên:
    Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là loại hình hoạt động rất cơ bản do tính chất đặc thù của quá trình học ở trường đại học, cao đẳng . Khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên phải chứa đựng cả mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, tri thức về phương pháp và đối tượng nghiên cứu và các yếu tố kỹ thuật khác của hoạt động nghiên cứu. Vì thế, khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên là năng lực thực hiện có hiệu quả các hoạt động nghiên cứu khoa học trên cơ sở lựa chọn, tiến hành hệ thống các thao tác trí tuệ và thực hành nghiên cứu khoa học phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nhất định nhằm đạt mục đích nghiên cứu khoa học đề ra.
    Khi coi hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một loại hình hoạt động học tập đặc trưng ở đại học, cao đẳng Hoạt động này có thể diễn ra theo các giai đoạn sau:
    - Định hướng nghiên cứu;
    - Xây dựng kế hoạch nghiên cứu;
    - Thực hiện kế hoạch nghiên cứu;
    - Kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu;
    - Báo cáo kết quả nghiên cứu.
    Khả năng nghiên cứu khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với kết quả nghiên cứu và xa hơn nữa, đến kết quả học tập và khả năng tự học của sinh viên đại học. Do vậy, khả năng nghiên cứu khoa học trở thành loại hình kỹ năng học tập rất cơ bản mà sinh viên cần chú trọng bồi dưỡng và rèn luyện.

    II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
    1. Nhận thức của sinh viên về vấn đề tự học: Nhiều sinh viên cảm thấy thời gian học tập sao quá nhàn hạ để họ có thể cho phép mình được vui chơi thoải mái. Thật vậy, biết làm gi đây bởi vì thời gian lên lớp mỗi ngày chỉ có mấy tiết. Còn tự học ư ? Biết học cái gi khi kiến thức của nhân loại là vô tận và con đường tiếp cận nó là vô cùng đa dạng, nhiều nẻo, nhiều đường. Bên cạnh đó tình trạng học “đối phó” diễn ra phổ biến trong sinh viên. Hầu hết sinh viên chưa chủ động được thời gian, chưa biết sắp xếp hợp lí thời gian cho toàn bộ chương trình cũng như kế hoạch học tập hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày của mình.
    Đa số sinh viên chưa biết và cũng chưa có ý thức chủ động tìm kiếm kiến thức mới. Giảng viên dạy tới đâu, sinh viên học đến đó, giảng viên dặn điều gì thì sinh viên học và làm điều ấy. Một số sinh viên học theo lối thực dụng: những phần nào giảng viên cho cho thi, liên quan đến điểm số thì mới đầu tư học tập.
    Khả năng ứng dụng và tiêu hoá kiến thức của nhiều sinh viên chưa sâu. Đối với sinh viên , kiến thức ở giảng đường dường như tách rời thực tế. sinh viên chưa thấy được kiến thức sách vở là bắt nguồn từ cuộc sống và mục đích cuối cùng của chúng là sẽ trở lại phục vụ cuộc sống. Đối với sinh viên nhiều vấn đề khoa học trở nên trừu tượng, mơ hồ, chúng tồn tại chơi vơi, dường như không có đất sống. Muốn tìm được mảnh đất sống thực sự cho chúng không gì hơn là phải đầu tư tự nghiên cứu, tự học.
    Sinh viên cũng chưa thấy được mối quan hệ giữa các các học phần, các đơn vị kiến thức. Kiến thức mình đang học có liên quan gì với kiến thức trước và sau nó. Do vậy, sinh viên cũng chưa biết vận dụng cái đã biết để giải quyết những vần đề chưa biết và cần biết.
    Từ những đặc điểm nêu trên dẫn đến một hậu quả khá nghiêm trọng là khả năng nghiên cứu của đa số sinh viên còn yếu kém. Điều này, đồng thời, dẫn đến một hệ lụy sau cùng là sau khi ra trường, khả năng phát hiện vấn đề, xử lí tình huống, giải quyết công việc của hầu hết sinh viên là không cao.

    Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đa số sinh viên đều hiểu được vai trò quan trọng của tự học. Tuy nhiên, sức ỉ và tính thụ động của sinh viên còn rất lớn. Hoạt động tự học vẫn còn mang tính hình thức, đối phó với các bài kiểm tra. Theo số liệu khảo sát, hầu hết các sinh viên được hỏi cho rằng tính chủ động trong học tập của sinh viên thấp. Có đến 75% ý kiến cho rằng sinh viên không có thói quen tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.


    Một thực tế hiện nay là sinh viên “rất lười đọc sách”. Mặc dù sách tham khảo đã được giảng viên hướng dẫn cụ thể ở từng nội dung bài học nhưng khi được hỏi về việc này, số đông sinh viên đều lúng túng. 85% cho rằng họ “có đọc” nhưng chỉ một số cuốn sách chuyên ngành khi phải trình bày, báo cáo hay làm bài kiểm tra. 15% còn lại cho rằng họ không đọc tài liệu tham khảo, có những sinh viên năm cuối chưa từng một lần đến thư viện tìm sách. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, nhiều sinh viên lựa chọn kênh thông tin từ các trang web. Điều này là tốt nhưng vì quá lạm dụng nên đại đa số sinh viên đã bỏ lỡ một kho tàng tri thức rất có giá trị từ sách tham khảo. Ngay cả khi tra cứu tài liệu trên Internet, sinh viên cũng chưa biết cách thu thập và xử lý khối lượng thông tin đa dạng đó như thế nào để thu được những kiến thức thật sự cần thiết và có hiệu quả.
    Như vậy, một cách khái quát có thể thấy rằng nhiều sinh viên chưa nhận thức được đúng đắn về sự cần thiết của hoạt động tự học. Sinh viên chưa tự giác, tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức cho mình mà còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào những gì thầy dạy, không có nhu cầu mở rộng hiểu biết, phát huy sáng tạo, đào sâu kiến thức. Một số ít sinh viên có ý thức tự học thì kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin phục vụ nhiệm vụ học tập còn yếu. Phương pháp tự học theo kiểu đối phó, theo phong trào, học để thi vẫn là hình thức tự học phổ biến hiện nay.

    2. Phương tiện và trang thiết bị hỗ trợ cho việc tự học
    Do yêu cầu tự học nên đòi hỏi sinh viên phải có khả năng ngoại ngữ để tra cứu thông tin, đọc tài liệu. Tuy nhiên, trình độ ngoại ngữ của sinh viên còn nhiều hạn chế nên rất khó để tiếp cận với các nguồn tài liệu nước ngoài. Một chỉ số khác cho thấy có đến 86,2% số lượng sinh viên xác định sự hạn chế của bản thân là vấn đề ngoại ngữ khi tiếp cận nguồn tài liệu ở trường, kể cả tài liệu chuyên môn. Học phí cho sinh viên khi đăng ký học ngoại ngữ tại trung tâm ngoại ngữ còn cao nên những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn không đủ điều kiện kinh tế để được học,
    Bàn về việc sinh viên được phép sử dụng phòng máy tính công của nhà trường, Khoa và qui chế được phép sử dụng để truy cập tài liệu, số liệu khảo sát cho thấy lần lượt là 80,6%66,5%. Điều này cho thấy sinh viên hiểu rõ được tầm quan trọng của công nghệ thông tin là công cụ cho học tập. Tuy nhiên trong thực tế đa số sinh viên vẫn còn ngại và cho rằng phòng máy tính công của nhà trường không đáp ứng đủ cho sinh viên khi cần học tập.
    Phòng máy tính công đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tham khảo tài liệu, tuy nhiên cần mở rộng thời gian hoạt động để sinh viên có dịp vào học ban đêm do quá tải giờ lên lớp. Do không có nhiều phòng tự học nên rất nhiều sinh viên phải ngồi học ngay tại hành lang nhà học, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả học tập. Một nghịch lý đang tồn tại: sinh viên thường tự học ngoài giờ nhưng hầu hết các Thư viện lại đóng cửa ngoài giờ. Nguồn tài liệu Thư viện Khoa phần lớn đọc tại chỗ, thiếu phiên bản. Máy tính bị hư hỏng nhiều, mạng kết nối chậm gây mất nhiều thời gian, thiếu máy tính trong những ngày đăng ký môn học. Nhiều phòng học thiếu quạt và bị hư hỏng bàn ghế nhiều. Phòng máy tính không đủ số lượng phục vụ sinh viên trong những ngày cao điểm (cuối học kỳ, chuẩn bị báo cáo giữa kỳ ). Cần có giám sát, quản lý việc sử dụng máy tính vì không ít sinh viên sử dụng không đúng mục đích (chơi games, đọc báo, ). Phòng máy tính tuy được trang bị nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của sinh viên. Mặt khác, kỹ năng tìm kiếm thông tin trên Internet phục vụ cho học tập của sinh viên chưa cao.
    3. Chuẩn bị nội dung khi đến lớp học tập
    Việc đầu tư tự học để chuẩn bị cho buổi học kế tiếp thường không được quan tâm đúng mức. Có đến 86,2% số lượng sinh viên không có thói quen xem bài trước khi lên lớp. Điều này nói lên sự quá tải trong quá trình học và không còn thời gian để tự học ở nhà. Khi nghe giảng trên lớp có 72,4% số lượng sinh viên ghi chép ý chính, chủ yếu dựa vào nội dung giáo trình hoặc bài giảng in sẵn để theo dõi.
    Đa số sinh viên do chuẩn bị chưa kỹ nên vấn đề đặt câu hỏi trên lớp rất ít xảy ra, qua khảo sát cho thấy có 63,8% số lượng sinh viên thỉnh thoảng mới tham gia đặt câu hỏi. Điều này cho thấy sự thụ động của sinh viên trong quá trình học và không có tính khám phá, năng động sáng tạo trong khi nghe giảng trên lớp.
    Ngoài ra số liệu thống kê còn cho thấy sinh viên ít chịu đọc lại những nội dung đã học, số liệu khảo sát cho thấy có 77,6% số lượng sinh viên xác nhận là thỉnh thoảng mới đọc lại nội dung đã học.
    48,3% số lượng sinh viên cho rằng tìm hiểu kiến thức bên ngoài giáo trình, sách chuyên môn để bổ sung trong quá trình học là quan trọng và cần phải thường xuyên thu thập. Truy cập bổ sung kiến thức chuyên môn từ nguồn Internet vẫn là chủ yếu, có đến 63,8% số lượng sinh viên đồng ý với quan điểm này.
    Việc tự học khuyến khích tinh thần học tập của bản thân do có động lực tác động từ giảng viên, cố gắng tìm tòi thu thập thông tin từ bên ngoài để theo kịp bài giảng ngày tiếp theo của giảng viên. Việc tự học còn gắn kết mối quan hệ bạn bè để trao đổi học hỏi lẫn nhau, giúp sinh viên có khả năng làm việc độc lập, có khả năng xử lý tình huống đột xuất, khắc phục thói quen lười biếng, xem nhẹ việc học của mỗi cá nhân.

    4. Những hạn chế của việc tự học
    -Qua phân tích thực trạng việc tự học của sinh viên cho thấy còn khá nhiều điều phải bàn để cải thiện việc tự học của sinh viên. Những trở ngại chính sinh viên cần phải khắc phục trong quá trình học tập:
    + Nguyên nhân sâu xa và trước hết là sinh viên chưa xây dựng được hình ảnh về mình với tư cách là một kĩ sư, hoặc thầy giáo với những kiến thức, kĩ năng cần thiết ở tương lai. Để làm được điều này, có lẽ trước hết sinh viên cần xác định cho mình một mục tiếu phấn đấu: mình phải là một kĩ sư, hay giảng viên có năng lực chuyên môn ở một cơ quan, trường học, hay một xí nghiệp nào đó trong tương lai. Muốn vậy ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mình phải học tập và trau dồi kiến thức, kĩ năng tốt nhất thông qua nhiều con đường: lên lớp đầy đủ, tự học, tự nghiên cứu, học nhóm
    + Thực tế cho thấy, hầu hết sinh viên chưa biết khái niệm “tự học”. Cụ thể, sinh viên chưa biết tự học cái gì, làm gì trong thời gian tự học, cũng như chưa biết lợi ích của việc tự học là gì. sinh viên chưa nhận thức được rằng kiến thức của môn học là vô hạn, mà thời gian trên lớp là hữu hạn. Dù có bao nhiêu thời gian trên lớp cũng không đủ để giảng viên có thể khai thác hết kiến thức của môn học; do vậy tự học là một phương pháp tối ưu để có thể đi tới chân trời khoa học.
    Tự học là một phương pháp học tập còn khá mới đối với sinh viên , đặc biệt là các khoá mới. sinh viên chưa được chuẩn bị một tâm thế, một phương pháp học tập mới. Quen với cách học truyền thống ở phổ thông – giảng viên cung câp kiến thức, sinh viên tiếp nhận thụ động, một chiều – sinh viên chưa biết mình phải học gì, làm gì để đạt được kiến thức, kĩ năng cần thiết .
    Nhiều sinh viên chưa tìm được niềm đam mê, sự thích thú trong học tập, nghiên cứu. Học tập là một nhiệm vụ, tuy nhiên nếu có cả niềm đam mê và sự hứng thú nữa thì hiệu quả mới cao và người học mới có thể mong đạt đến đỉnh cao của khoa học. Niềm đam mê và sự thích thú sẽ là động lực giúp sinh viên vượt qua mọi trở ngại và quyết tâm đi đến điểm cuối cùng.

    + Khó khăn tiếp theo là thời gian. Ban ngày, hầu hết sinh viên dành thời gian lên lớp còn thời gian buổi tối hầu như là dành cho việc học Anh văn hoặc Tin học. Học sinh, sinh viên còn yếu trong khả năng tự học là bởi chúng không được khuyến khích tự học, không được dạy cách tự học. Không được khuyến khích tự học vì chúng phải học trên lớp quá nhiều (có những trường dạy nguyên ngày, rồi còn học thêm ở trung tâm, học với giáo viên ở nhà). Không được khuyến khích tự học vì làm toán theo mẫu, làm văn theo mẫu nên tự học sẽ không được điểm cao.
    + Tính thụ động của sinh viên, lười đọc sách, ôn bài ở nhà , chỉ đợi đến giờ lên lớp là vào học, không đầu tư kiến thức chuyên môn mặc dù đã có trang bị giáo trình, bài giảng sẵn có trong tay.
    + Chỉ học những gì giáo viên nêu ở lớp, nếu giáo viên tóm tắt vấn đề thì sinh viên mới nắm được, đây là kiểu học ở bậc phổ thông, mang tính từ chương.
    + Chưa nắm được phương pháp tự học và cách học ở bậc đại học, nhất là bước chuẩn bị nội dung ở nhà cho lần lên lớp kế tiếp. Thật ra lần lên lớp kế tiếp cách nhau 1 tuần , không thể nói là không có thời gian chuẩn bị cho 1 môn học.
    + Một trở ngại lớn nữa là vấn đề mưu sinh, sinh viên gặp phải điều kiện kinh tế khó khăn, phải đi làm thêm, đôi khi không dự lớp và không có thời gian tự học, vì thế chất lượng học tập kém và không theo nổi việc học.
    + Vấn đề ngoại ngữ là một trở ngại lớn đối với việc sinh viên tự học. Khi đã bước sang năm thứ 2 và 3, tất yếu là sinh viên cần phải đọc thêm nhiều tài liệu chuyên môn, đa phần là sách nước ngoài, tài liệu tiếng Việt không nhiều, vì thế sinh viên không thể tích lũy kiến thức chuyên ngành theo kiểu tự học qua sách, tài liệu chuyên môn ngoại ngữ.
    + Việc học nhóm gặp nhiều khó khăn do thời khóa biểu khác nhau, không có phòng cho sinh viên tự học đặc biệt là học nhóm, làm việc nhóm đôi khi còn đùn đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác trong học tập.

    III. Đề ra giải pháp:
    Bàn về giải pháp để nâng cao tính tự học của sinh viên sao cho hiệu quả, thiết nghĩ đây là vấn đề cần thảo luận để tìm ra những luận cứ khoa học giúp cho sinh viên trong công tác tự học. Nhóm em xin nêu các vấn đề cần chú ý như sau:
    1. Đối với sinh viên:
    *Sinh viên cần chủ động rèn luyện tính tự học:
    Tự học có thể hiểu là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Bước đầu quá trình tự học có thể sinh viên còn có nhiều lúng túng nhưng đó cũng chính là động lực giúp sinh viên tư duy để thoát khỏi những khó khăn, lúng túng đó, nhờ vậy mà thành thạo lên.
    + Trong quá trình tự học của sinh viên, đọc sách được coi là khâu quan trọng đầu tiên giúp sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự học hiệu quả Ngoài đọc sách, sinh viên cũng nên có kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức cũ để học kiến thức mới bằng cách: Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện những kiến thức cũ có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức mới. Dùng kiến thức cũ chứng minh cho kiến thức mới .
    +Cần nâng cao tính tự học, giải thích rõ môi trường học tập ở bậc đại học khác xa với môi trường học tập ở bậc phổ thông trung học. Rèn luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục tiêu học tập của sinh viên.

    + Sinh viên cần nắm vững kiến thức của hệ thống phương pháp học tập tích cực: Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng
    +Về khối lượng kiến thức học tập ở bậc đại học, cao đẳng nhiều hơn so với ở bậc học phổ thông (ở bậc phổ thông tính ra chỉ bằng nửa học kỳ ở bậc đại học cao đẳng). Chính vì thế sinh viên không tập luyện tính tự học thì không thể giải quyết một khối lượng lớn trong học kỳ.

    + Về chất lượng kiến thức: ở bậc đại học không chỉ học sự kiện hay học hiện tượng, không chỉ học biết, học hiểu và vận dụng mà còn học phân tích, học tổng hợp, học đánh giá, học tư duy, và nhất là học phương pháp học tập để học biết được nhiều và có năng lực tự học suốt đời. Việc trang bị phương pháp học tập cho sinh viên khi mới vào năm thứ nhất là rất quan trọng.

    2. Vai trò của giảng viên trong việc rèn luyện tự học của sinh viên:

    +Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên cần giáo dục cho sinh viên xác định động cơ học tập một cách đúng đắn. Giảng viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, xem tự học như là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo để hình thành phương pháp tự học, tạo nền tảng cho năng lực tự học trong sinh viên.
    + Giáo viên nên tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình . Điều này sẽ buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình. Để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương), cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn.
    + Đi đôi với việc xây dựng đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng giáo trình là yêu cầu đổi mới cơ bản phương pháp dạy – học. Định hướng cơ bản trong đổi mới phương pháp giảng dạy là tích cực chuyển từ lối truyền đạt kiến thức một chiều từ phía giảng viên sang việc tăng cường tổ chức các hoạt động học tập cho sinh viên, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên.
    Vì vậy, mỗi giảng viên cần nhận thức một cách đúng đắn tính tất yếu của việc đổi mới, từ đó chủ động suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp theo các ngành nghề khác nhau nhằm giúp sinh viên biết cách tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo trong quá trình học tập. Để hòa nhịp với yêu cầu đổi mới này, lực lượng giảng viên cần nắm vững phương pháp dạy học để : Dạy có nội dung chọn lọc, dạy có phương pháp phù hợp, dạy phương pháp học môn học nhằm tạo cho người học có tiềm năng tự phát triển học vấn.

    3. Một số kỹ năng giúp việc tự học có hiệu quả:
    3.1. Kế hoạch học tập
    Lập kế hoạch học tập là điều cần thiết, nó sẽ giúp bạn làm chủ được thời gian. Mỗi người, tùy vào nhu cầu của mình, sẽ lập một kế hoạch học tập riêng, kế hoạch đó có thể thay đổi khi cần, nhưng điều quan trọng nhất là phải tuân theo kế hoạch đề ra.
    + Học ở đâu: Thư viện, phòng đọc sách và phòng riêng là tốt nhất. Quan trọng là nơi đó không làm phân tán sự tập trung của bạn.
    + Liên hệ việc học hiện tại với những mục tiêu lâu dài: Có sinh viên thích học chỉ là việc học và cũng có sinh viên nghĩ việc học sẽ có ích cho những mục tiêu lâu dài. Do đó cần hiểu những điều mình học (một bài) lồng ghép vào bối cảnh rộng hơn (một chương, một môn học ) như thế nào.
    + Học tập một cách tích cực: Đừng học thụ động mà hãy biến việc học tập thành một quá trình tích cực. Xử lý tất cả những điều đọc được, nghe được bằng ngôn ngữ từ chính mình để có ý nghĩa hơn. Xác định cách thức học phù hợp với chính mình.
    + Tập kiên nhẫn: Học tập là một quá trình đòi hỏi sự đầu tư thời gian, không thể nóng vội được và tiến bộ cũng phải từng bước.
    + Sử dụng nhiều phương pháp học: Để cần học thuộc bài chỉ cần đọc lại nhiều lần, tuy nhiên có nhiều cách để lập lại: xem lại phần ghi chép, lập phiếu, làm bài tập, học nhóm Phương pháp học tùy theo người học và cũng tùy theo môn học. Qua tìm hiểu, chúng em biết tới phương pháp học SQ3R.

    SQ3R là viết tắt của tiếng anh ( survey, question, read, recite, review) Quan sát, Hỏi , Đọc, Trả bài và Ôn tập.
    . Quan sát tổng thể: là nhìn tổng thể về vấn đề mà bạn sắp đọc trước khi đi vào chi tiết cũng giống như bạn xem bản đồ trước khi lên đường. Quan sát các biểu đồ, bản đồ, hình vẽ và những hỗ trợ về hình ảnh khác.
    . Question, đặt câu hỏi: Những vấn đề quan trọng mà bạn can học thường chính la câu trả lời cho những câu hỏi. Câu hỏi nên tập chung vào nội dung học( cái gì, tại sao, bằng cách nào, người nào, khi nào và ở đâu?). Trong quá trình đọc hay học, bạn nên tự đặt cho mình nhiều câu hỏi và sau đó tự trả lời. Làm như vậy bạn sẽ tiếp thu tài liệu tốt hơn và nhớ các chi tiết dễ dàng hơn.
    . Read, Đọc: Chú ý các chữ in nghiêng hay in đậm vì tác giả muốn nhấn mạnh những điều này. Khi đọc không được bỏ qua các bảng, đồ thị và hình minh họa vì đôi khi chúng có thể diễn đạt một ý nghĩa nào đó mà còn rõ ràng hơn cả đoạn văn. Thường các ý chính được minh họa bằng nhiều ví dụ.
    . Recite, trả bài: Cố gắng tự xây dựng lại nội dung chính của đoạn bạn vừa đọc bằng ngôn từ và tư duy của riêng mình. Liên hệ những điều mình vừa đọc với những điều đã biết.
    . Review, ôn tập: Trong lúc ôn tập nên xem lại những điều ghi chép để làm sáng tỏ những điềm bị bỏ sót hay chưa hiểu.

    3.2. Một số kỹ thuật học tập có hiệu quả:
    *Chuẩn bị để có phương pháp tự học hiệu quả:
    +Đọc lướt: Trước khi bắt tay vào làm việc gì, bạn cần đọc lướt qua hướng dẫn, tài liệu giảng viên cung cấp cho bạn, tạp chí chuyên ngành .Đọc lướt như cách bạn thường làm trong nhà sách trước lúc mua quyển sách, mượn tài liệu của trường. Bạn có thể lật nhanh từng trang, hoặc mở ngẫu nhiên một số trang nào đó để định hình cho mình cách bố cục, trình bày, mục lục, hình minh họa vị trí các phần tóm tắt, kết luận .
    + Nắm ý chính: Nắm được ý chính trong mỗi đoạn văn và hiểu nó theo cách riêng của mình là điều cốt lõi của việc học có hiệu quả. Bạn nên tập thói quen tìm ra ý chính của các đoạn để dần dần tóm lược được cả quyển sách.
    + Trích lược những chi tiết quan trọng: Thông thường mỗi ý chính trong một bài đều có liên quan với một chi tiết quan trọng. Nhận diện được càng nhiều chi tiết quan trọng thì càng tốt. Xác định càng nhiều liên hệ giữa các chi tiết và các ý, giữa các ý với nhau thì học tập đạt hiệu quả càng cao hơn.
    + Đánh dấu trong sách: Dùng bút dạ quang thay vì gạch dưới các đọan vì kinh nghiệm cho thấy những đoạn được tô mầu bút dạ quang dễ nhớ hơn. Tuy nhiên, không nên chỉ đọc rồi tô những từ quan trọng vì nó ít có hiệu quả.
    + Ấn định thời gian, số lượng: Việc cần làm trước tiên là bạn phải ngồi vào bạn học, sau đó tự ấn định cho mình một khoảng thời gian cụ thể, xác định bằng con số. Ví dụ như ngồi vào bàn học, bạn tự đặt cho mình mục tiêu: “đọc 50 trang sách tài liệu chuyên ngành trong vòng 20 phút” chẳng hạn. Ngoài ra việc xác định thời gian, số lượng ngay từ đầu sẽ giúp bạn tránh được nỗi sợ hãi theo bản năng về những điều bạn chưa biết. Bạn sẽ cảm thấy nặng nề khi phải đọc 1 cuốn sách mà không biết mình sẽ đọc bao nhiêu trang trong bao lâu, nhưng ngược lại nếu bạn ấn định rõ số lượng, thời gian bạn cần đọc quyển sách bạn sẽ thấy nhẹ nhàng. Việc ấn định thời gian, số lượng sẽ giúp bạn làm việc có hiệu quả, tăng năng suất hơn.
    + Năm phút ghi chú theo sơ đồ tư duy: Sau khi ấn định thời gian, số lượng thì hãy ghi ra giấy những kiến thức mình đã học, đọc từ môn học của mình. Bạn nên lưu ý là bạn ghi càng nhiều, càng tốt, càng nhanh càng hiệu quả, và không được dành quá năm phút cho phần chuẩn bị này nhé.
    + Nêu câu hỏi và xác định mục tiêu: Sau khi đã dành năm phút ghi chú theo sơ đồ tư duy, bước tiếp theo bạn cần phải tự đặt câu hỏi, xác định mục tiêu cho chính mình. Đại loại như mình cần phải đọc sách gì liên quan đến chuyên ngành của mình, và mục đích của việc đọc sách này là gì, chúng có liên quan đến vấn đề mình đang gặp phải hay không. Tự đặt câu hỏi và xác định mục tiêu của mình sẽ giúp bạn hạn chế được vấn đề lan mang trong học tập, tăng sự tập trung cho học tập.
    *Sau chuẩn bị sẽ là áp dụng, vậy áp dụng như thế nào trong học tập để có được một phương pháp tự học hiệu quả:
    + Đọc tổng quát: Sẽ giúp bạn nắm được các phần minh họa trực quan của quyến sách.
    + Đọc trước các chủ điểm: Nghĩa là xem trước nội dung sách, đọc trước các chủ điểm cũng giống như cách bạn tự vạch ra tuyến đi cho mình từ điểm A đến B nên đi theo đường dài, hay đường tắt. Lưu ý trong quá trình đọc trước các chủ điểm bạn nên cố nhớ phẩn mở đầu, phần tóm tắt đầu tiên nhé. Những phần này thường hàm chứa thông cốt lõi, nhờ đó mà bạn có cơ hội nắm vững nội dung cốt lõi, mà không phí toàn bộ thời gian đọc.
    + Đọc chi tiết: Sau giai đoạn đọc tổng quát, đọc trước các chủ điểm nếu bạn cảm thấy thiếu thông tin thì hãy đọc chi tiết. Giai đoạn đọc chi tiết này được xem như một phẩn bổ sung cho những thông tin còn bỏ ngỏ.
    + Đọc ôn lại: Sau khi đã hoàn chỉnh các giai đoạn đọc tổng quát, đọc chủ điểm, đọc chi tiết nếu như vẫn cần thêm thông tin để hoàn thành mục tiêu, hay trả lời vấn đề cần giải quyết. Thì ở giai đoạn này bạn chỉ cần đọc lại những phần chưa hoàn chỉnh và xem lại những phần mà bạn đã đánh dấu ở trước đó.

    Đọc lại những gì ghi chép sau buổi học hay trước khi đi ngủ sẽ giúp nhớ bài tốt hơn. Sau 9 tuần, những sinh viên xem lại bài trong ngày còn nhớ 75% bài, những sinh viên không làm điều đó không nhớ đến 50% sau 1 ngày và ít hơn 25% sau 9 tuần. Có thể đọc một tài liệu nhiều lần, mỗi lần với một mục tiêu khác. Do đó, trước mỗi lần đọc, bạn nên xác định mục tiêu của lần đọc đó là gì và đọc theo đúng mục tiêu đó.


    IV. Kết luận và kiến nghị
    1. Kết luận : Trong quá trình học tập ở trường đại học của sinh viên thì tự học, tự nghiên cứu là rất quan trọng và cái ranh giới học tập. Một số phương pháp, chiến lược và kỹ thuật học tập đã được trình bày để giúp các bạn sinh viên nâng cao hiệu quả học tập bao gồm: kiểm soát thời gian học bằng kế hoạch học tập, sử dụng phương pháp SQ3R để tiếp thu bài tốt hơn, có kỹ thuật đọc nhanh và kỹ hơn, ghi chép nhanh và lưu trữ thông tin ghi chép Tuy nhiên, kỹ năng học tập có hiệu quả chủ yếu tùy thuộc vào ý chí và quyết tâm của bản thân muốn tiến bộ và học thật tốt. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học cần phải có sự quản lý sát sao của mọi người liên quan đến hoạt động tự học của sinh viên, đặc biệt giảng viên phải đổi mới phương thức tổ chức dạy học và đòi hỏi cao hơn tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của sinh viên trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Nếu bạn không chịu cố gắng và hy sinh thì có hướng dẫn bao nhiêu cũng vô ích. Bạn chính là người chịu trách nhiệm về việc đào tạo của mình và học có hiệu quả có thể giúp bạn làm điều đó tốt hơn.
    Cuối cùng xin có một lời nhắn nhủ với các bạn sinh viên là: hãy học một cách thông minh, đừng học một cách khổ sở.
    2. Đề nghị (khuyến nghị):
    Hoạt động tự học của sinh viên không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu Trong đó hệ thống nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học của sinh viên. Nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế hoạch để không ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như:
    - Củng cố, nâng cấp, mở rộng hệ thống phòng học, phòng thí nghiệm - thực hành - thực tập, thư viện; bám sát yêu cầu cúa các đề cương môn học để chuẩn bị các học liệu được coi là bắt buộc ghi trong đề cương môn học
    - Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng nguồn tư liệu điện tử, thiết bị dạy học bằng cách ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin hiện đại.
    Nhà trường cũng cần có chế tài quản lý theo hướng khuyến khích giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy, thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực sư phạm cho lực lượng giảng viên thông qua bồi dưỡng nghiệp vụ định kỳ và học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước.
    Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ hoạt động tự học, các nhà quản lý cũng cần quan tâm tới các điều kiện phục vụ, thái độ phục vụ sinh viên của các bộ phận chuyên trách, các chính sách hỗ trợ của nhà trường để tạo cho sinh viên một môi trường học tập tốt nhất.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO


    [1] Nguyễn Nghĩa Dán, Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1998.
    [2] Phạm Trọng Luận, Về khái niệm “Học sinh là trung tâm”, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1995.
    [3] Một số tài liệu khác tham khảo từ thư viện.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...