Tài liệu Bài thuyết trình về trần nguyên hãn

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    BÀI THUYẾT TRÌNH VỀ TRẦN NGUYÊN HÃN
    LỜI NÓI ĐẦU
    Khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV(1418-11427) là một sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập của dân tộc ta. Trong cuộc khởi nghĩa đó, dưới hai vị lãnh tụ tối cao là Lê Lợi và Nguyễn Trãi, còn có những nhà quân sự có tài như Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Lê Văn Linh Mỗi người đều có những cống hiến xứng đáng mà đến ngày nay sử sách nước ta vẫn chưa đánh giá hết được.
    Riêng Trần Nguyên Hãn, là một tướng có tài, có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, được phong chức “Tả tướng quốc”, và ban quốc tính. Trần Nguyên Hãn là tướng đứng đầu về ban võ trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trong thời gian đầu triều Lê Thái Tổ. Nhưng vì sau cuộc khởi nghĩa chống Minh, Ông bị Lê Thái Tổ nghi can và giết hại, vì vậy mà công lao của Ông đối với khởi nghĩa Lam Sơn không được ghi chép đầy đủ.
    Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn là anh em họ với nhau, cùng nhau tham gia và đóng vai trò quan trọng trong khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi, là một nhân vật vĩ đại tromg lịch sử dân tộc, vì vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu về khía cạnh, lĩnh vực liên quan đến Nguyễn Trãi. Còn Trần Nguyên Hãn, tuy cũng là một “khai quốc công thần” của triều Lê, là một người chí thân với Nguyễn Trãi, có những cống hiến to lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lại chưa được đánh giá đúng mức. Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài về Trần Nguyên Hãn để làm báo cáo khoa học của mình, trước hết là để hiểu thêm về khởi nghĩa Lam Sơn, về cuộc đời của một anh hùng dân tộc trong cuộc khởi nghĩa đó; Hơn nữa, là những người con của quê hương Ông, bản thân chúng tôi càng cảm thấy có trách nhiệm và lòng tự hào nghiên cứu, tìm hiểu về một vị anh hùng dân tộc, một “danh nhân văn hoá” của tỉnh nhà, con người đã có công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc thế kỉ XV.
    Chỉ sau khi vua NhânTông, năm Diên Ninh thứ hai (1456) nhân đại xá “biểu dương người có công lao cũ “(Lê Quý Đôn) đã khôi phục lại danh dự và khẳng định công lao của Trần Nguyên Hãn với khởi nghĩa Lam Sơn. Chính sử của ta như Đại Việt Sử Kí Toàn Thư và những sách sử triều Lê sau đó: Đại Việt Thông Sử – Lê Quý Đôn, Đại Việt Sử Kí Tổng Vịnh của Lê Tung[SUP][SUP][1][/SUP][/SUP], Việt Sử Yếu của Lê Tung[SUP][SUP][2][/SUP][/SUP] đã khôi phục và khẳng định những công lao to lớn của ông với khởi nghĩa Lam Sơn.
    BỐ CỤC BÁO CÁO KHOA HỌC:
    I. Trần Nguyên Hãn và những xu hướng cứu nước đầu thế kỷ XV.
    II.Trần Nguyên Hãn và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427).
    III. Trần Nguyên Hãn và vấn đề thời hậu chiến.
    I. Trần Nguyên Hãn và những xu hướng cứu nước đầu thế kỷ XV
    Giữa lúc đất nước đang trải qua những biến động sâu sắc, nhà Trần suy yếu và sụp đổ, nhà Hồ mới thành lập đang gặp nhiều khó khăn thì nhà Minh đã lợi dụng thời cơ tiến hành xâm lược nước ta.
    Nhà Minh là một triều đại phong kiến hùng mạnh của Trung Quốc do Chu Nguyên Chương thành lập năm 1368 ttrên cơ sở phong trào nông dân Trung Quốc lật đổ ách thống trị của nhà Nguyên. Đến thơì Minh Thành Tổ (1402-1424) nhà Minh đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất và đồng thời có khuynh hướng bành trướng thế lực ra bên ngoài. Sau thời gian thăm dò và chuẩn bị, tháng 11 năm 1406, nhà Minh phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
    Các phong trào đấu tranh của nhân dân ta đã diễn ra theo ba xu hướng chính:
    1. Các cuộc khởi nghĩa của dân binh, thổ hào ở các địa phương
    Phạm Chấn là một thổ hào ở Đông Triều, nổi dậy ở bình Than, lập Trần Nguyệt Hồn làm Vua, tự xưng là quân Trung Nghĩa; song cuộc nội dậy này đã nhan chóng bị thất bại.
    Năm 1408, Trần Nguyên Thôi cầm đầu quân khởi nghĩa ở huyện Nguyên Lang, châu Tam Đái (Vĩnh Phúc – Phú Thọ); Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí nổi dậy hoạt động ở châu Thái Nguyên.
    Năm 1409, Hoàng Cự Liêm nổi dậy ở châu Quảng Oai.
    Nguyễn Sư Cối tự xưng Vương, cùng Đỗ Nguyên Thế chiếm cứ xã Nghi Dương thuộc An Lão châu Đông Triều. Theo sử nhà Minh, thì số lượng của nghĩa quân khoảng 2 vạn người, hoạt động mạnh mẽ ở vùng cửa sông Hoàng Giang, sông Ma Lao, Đại Toàn. Nhưng đến năm 1410 thì bị nhà Minh dập tắt.
    Vùng xung quanh thành Đông Quan, nghĩa binh cũng hoạt động rất mạnh. Lê Nhị cầm đầu nghĩa quân ở Thanh Oai, Từ Liêm. ở phủ Lạng Sơn có Hoàng Thiêm Hữu, Nguyễn Nguyên Hách. Phủ Thái Nguyên là khu vực hoạt động của Chu Sử Nhan, Bùi Quý Thăng. Đặc biệt là nghĩa binh áo đỏ (hay Hồng Y) ở Thái Nguyên hoạt động trong một thời gian dài, gây ra nhiều khó khăn cũng như tổn thất cho quân xâm lược nhà Minh.
    Năm 1415, vùng Thanh Hoá bùng nổ cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ, tự xưng là Nguyệt Hồ Vương, hoạt động ở vùng lưu vực sông Mã.
    2. Các cuộc khởi nghĩa của Quý tộc nhà Trần
    Khởi nghĩa của Trần Ngỗi
    Trần Ngỗi (có sách chép là Trần Quỹ) là con thứ của vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), đời Trần đã được phong là Giản Định Vương, sang thời Hồ đổi phong là Nhật Nam Quận Vương
    Khi nhà Minh lùng bắt con cháu và quan lại nhà Trần, Trần Ngỗi phải lẩn tránh vào bến Yên Mô (Ninh Bình). Trần Triệu Cơ ở Nam Định đang chuẩn bị khởi nghĩa, liền đón Trần Ngỗi về lập lên làm Minh chủ.
    Khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng.
    Trần Quý Khoáng là con thứ của Mẫn Vương Ngạc, cháu vua Trần Nghệ Tông và cũng là cháu của Trần Ngỗi. Dưới Triều Trần, Ông từng giữ chức Nhập nội Thị chung. Khi quân Minh xâm lược, Ông phải trốn tránh khắp nơi.
    Đặc điểm chung của những cuộc khởi nghĩa do những quý tộc yêu nước lãnh đạo là ngoài mục đích lật đổ nền đô hộ của nhà Minh, giải phóng đất nước, còn nhằm khôi phục lại nhà Trần và bảo vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc. Lật đổ nền đô hộ của nhà Minh, giải phóng đất nước là nội dung yêu nước và tiến bộ của những cuộc khởi nghĩa này. Khẩu hiệu khôi phục nhà Trần đã có tác dụng bóc trần và chống đối lại sự xảo trá của nhà Minh trong việc xâm lược nước ta dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”.

    [HR][/HR][1] Lê Tung, tức là Dương Bang Bản, đỗ Hoàng giáp năm 1484.

    [2] Những tài liệu này , chúng tôi được nhà nghiên cứu lịch sử Lê Kim Thuyên ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc cung cấp
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...