Tài liệu Bài Tập Học Kỳ Hình Sự 2

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ:
    Vào khoảng 19h ngày 26/03/2003 4 tên A, B, C và D ngồi quán uống rượu. Tại đây, B có rút dao mang theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi A trả lại dao và cất vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có quen biết, A và C dừng lại nói chuyện với H, còn B và D đi trước. A rủ H đi uống rượu tiếp nhưng H từ chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H trở lại. Thấy vậy, A quay sang cãi nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng bằng ngã ngồi. T và A xô xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ôm ngăn A, còn C can T. A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Nghe tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. H buông tay giữ A ra thì thấy T đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T đi cấp cứu. Trên đường đi T đã tử vong.
    B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B. K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. B trốn ra Hải Phòng đến ngày 09/4/2003 về đầu thú tại Công an huyện D.
    Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 03/4/2003 của Tổ chức giám định pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
    Hỏi:
    1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nếu có? (3 điểm)
    2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao? (2 điểm)
    3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? (1 điểm)
    4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (1 điểm)










    GỈAI QUYẾT VẤN ĐỀ:
    Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nếu có?
    Trong trường hợp trên, do nghe tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. H buông tay giữ A ra thì thấy T đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T đi cấp cứu. Trên đường đi T đã tử vong.
    Chủ thể của tội phạm ở đây đó là B, người đã dùng con dao trong túi quần đâm nhiều nhát vào bụng và ngực của T khiến T chảy nhiều máu và tử vong trên đường đi cấp cứu.
    Về mặt khách quan: Khi thấy A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Nghe tiếng A la chửi, B đã quay lại dùng con dao để trong túi quần của mình đâm vào ngực và bụng T nhiều nhát. Ngoài ra còn đâm phải C một vết đâm vào tay trái. Chỉ khi nghe C bị đâm đau nên chửi thì B mới ngừng đâm T và cầm dao bỏ đi.
    Về mặt chủ quan: Lỗi của B đây đó là cố ý dùng hung khí (Dùng con dao do chính B mang theo để trong túi quần. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng) để đâm nhiều nhát và bụng và ngực B. Với mục đích đó là giết chết T theo lời của A: “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Động cơ phạm tội của B ở đây đó là khi mà nghe tiếng A la chửi,cụ thể đó là A nhiều lần la lớn và chửi B với nội dung:”Chúng mày giết chết nó cho tao”, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Lỗi của B đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu qua của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra (theo Điều 9 BLHS) thì B đã dùng dao đâm nhiều nhát vào bụng và ngực. Mục đích tước đoạt đi mạng sống của T.
    Vì vậy xét theo Điều 93 BLHS thì B phạm tội giết người, cụ thể:
    Điều 93. Tội giết người
    Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
    a) Giết nhiều người;
    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
    c) Giết trẻ em;
    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
    n) Có tính chất côn đồ;
    o) Có tổ chức;
    p) Tái phạm nguy hiểm;
    q) Vì động cơ đê hèn.
    Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.
    Xét thấy trường hợp của B khi nghe tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. Hành vi của B đó là hành vi muốn tước đoạt đi mạng sống của T, cụ thể cầm dao đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T (là những chỗ dễ gây chết người nhất) mà hành vi của B còn có tính chất côn đồ hơn nữa khi rút dao ra đâm nhiều nhát (chứ không phải một nhát). Đây là mục đích, ý muốn phạm tội của B muốn tước đoạt đi mạng sống của T, giết chết T nên mới đâm nhiều nhát vào bung và ngực T. Mãi khi đâm nhầm vào tay trái của C, bị C chửi nên B mới ngừng đâm và cầm con dao bỏ đi. Đây chính là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt với B.
    Bởi xét theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS: B phạm tội giết người trong trường hợp có tính côn đồ. Vì thế mà tội danh cho hành vi phạm tội của B đó là tội giết người. Tình tiết tăng nặng định khung hình phạt ở đây đối với B đó là hành vi của B là trường hợp có tính côn đồ. Vì thế mà khung hình phạt cao nhất đối với B phải nhận đó là: bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
    Một điểm nữa đó là tại sao lại định tội danh cho B là tội giết người mà lại không định tội B là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đó là bởi vì hành vi đây của B thuộc vào hành vi nghiêm trọng. Do có tính chất côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm đó là con dao đâm liên tiếp nhiều nhát đâm vào bụng và ngực của T, mục đích của B đó là giết chết T theo lời của A chứ không hề có ý định chỉ gây thương tích. Hành vi của B đã xuất phát từ ý muốn giết T nên đã đâm lien tiếp nhiều nhát để giết chết T. Trong khi đó chỉ sau khi do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. Bởi vậy nên hành vi của B được định tội danh giết người theo Điều 93 BLHS.
    A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao?
    Để biết A có bị coi là đồng phạm với B hay không? Ta cần xem thêm theo Điều 20 BLHS về tội Đồng phạm, cụ thể:
    Điều 20. Đồng phạm
    Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
    Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
    Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
    Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
    Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu:
    - Có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm;
    - Những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý).
    Ở đây thì A và B đã đủ điều kiện của chủ thể tội phạm, cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là A đã tham gia vào tội phạm với B với hành vi xúi giục người khác, cụ thể là B thực hiện tội phạm. Để nói rõ hơn, đó là vào khoảng 19h ngày 26/03/2003 4 tên A, B, C và D ngồi quán uống rượu. Tại đây, B có rút dao mang theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi A trả lại dao và cất vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có quen biết, A và C dừng lại nói chuyện với H, còn B và D đi trước. A rủ H đi uống rượu tiếp nhưng H từ chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H trở lại. Thấy vậy, A quay sang cãi nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng bằng ngã ngồi. T và A xô xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ôm ngăn A, còn C can T. A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Chính A là người đã xúi giục 3 người kia vào hành vi đánh chết T, nội dung câu chửi của A có hàm ý xúi giục, nảy sinh ý định giết T của B. B đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. A là người đã xúi giục, còn B là người thực hành.
    Ngoài ra, khẳng định A là đồng phạm với B bởi lý do nữa đó là khi mà thấy B cầm dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào bụng và ngực T. A đã không hề có phản ứng gì, cũng không có can ngăn B chấm dứt hành vi phạm tội đó. Bản thân A cũng mong muốn hậu quả đó xảy ra (cụ thể đó là T chết) . Nếu như A không mong muốn hậu quả đó xảy ra thì khi thấy B đâm T, A đã phải kịp thời can ngăn, hoặc yêu cầu B dừng lại.
    Vì vậy xét theo Khoản 2 Điều 20 BLHS thì A là đồng phạm, là người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Cụ thể người thực hiện tội phạm ở đây là B.
    K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì?
    Trong trường hợp này K phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì hành vi của K đó là B gọi điện thoại cho K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B. K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. B trốn ra Hải Phòng đến ngày 09/4/2003 về đầu thú tại Công an huyện D.
    Hành vi của K đã phạm vào tội che giấu tội phạm theo Điều 21 BLHS:
    “Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định.”
    Bởi lẽ hành vi của K là không có sự hứa hẹn trước với B; hành vi này được thực hiện khi tội giết người của B đã kết thúc. Có nghĩa là khi mà B đã đâm T xong rồi mới gọi cho K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch bỏ trốn của B. K đã bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. Chính hành vi của K đó là bảo B về nhà mình để chờ, hành vi này thể hiện rằng K có ý định che giấu hành vi phạm tội của B. Sau đó lại giúp B cầm điện thoại để cho B bỏ trốn.
    Tại sao tội của K lại không được coi là tội không tố giác tội phạm mà lại là tội che giấu tội phạm? Bởi lẽ tội không tố giác tội phạm theo Điều 22 BLHS quy định rõ như sau:
    “1. Người nào biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.
    2. Người không tố giác là ông, bà , cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 313 của Bộ luật này.”
    Trong khi đó hành vi của K là xuất phát từ sau khi hành vi phạm tội của B đã xong, K không hề biết gì về tội của B đang được chuẩn bị hay đang được thực hiện. Mà chỉ sau khi nghe B gọi điện kể về hành vi vừa đâm T của B thì K mới giúp che giấu B bằng cách bảo B về nhà mình ngồi chờ để rồi K mang điện thoại B đi cầm lấy tiền cho B chạy trốn. Hành vi này của K không được coi là hành vi không tố giác tội phạm mà là tội che giấu tội phạm bởi vì hành vi của K vừa che giấu B tại nhà mình vừa giúp sức cho B chạy trốn bằng cách cầm điện thoại B đưa tiền cho B chạy trốn.
    Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
    Nếu B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa đươc xóa án tích thì lần phạm tội này của B là tài phạm bởi vì xét theo Điều 49 BLHS quy định:
    Điều 49. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
    1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
    2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
    a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
    b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
    Theo Khoản 1 Điều 49 BLHS thì trường hợp của B đã bị kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo Khoản 2 Điều 138 BLHS, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội thì được coi là tái phạm. Bởi vì B đã bị kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS:
    Điều 138. Tội trộm cắp tài sản
    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tổ chức;
    b) Có tính chất chuyên nghiệp;
    c) Tái phạm nguy hiểm;
    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
    đ) Hành hung để tẩu thoát;
    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    Nhưng khi kết án thì B chỉ bị 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản trong tổng mức chung hình phạt theo Khoản 2 Điều 138 này là bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm nên xét theo Khoản 3 Điều 8 BLHS:
    “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
    Bởi vì B chỉ bị 3 năm tù thì theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì nó thuộc vào tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó Khoản 1 Điều 49 quy định:
    Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.


    Bởi lẽ thế nên trường hợp này của B là tái phạm. Thêm nữa đó là trường hợp phạm tội này của B là hành vi cố ý. Có nghĩa là hành vi cầm dao đâm nhiều nhát và bụng và ngực T là hành vi cố ý giết người của B. Nên chính vì vậy mà lần phạm tội này của B là tái phạm.


    KẾT LUẬN:
    Qua tình huống trên cho thấy hành vi con người khi phạm tội vào Luật hình sự Việt Nam thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội đó. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng không để lại hậu quả nghiêm trọng. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị. Mọi hành vi phạm tội đều được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.


































































    MỤC LỤC Trang


    ĐẶT VẤN ĐỀ: .1
    GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
    1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nếu có? 2
    2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao? .4
    3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? 6
    4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? 8


















































    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:


    Gíao Trình Luật Hình Sự Việt Nam Tâp 1, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2007


    Gíao Trình Luật Hình Sự Việt Nam Tâp 2, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2007


    Bộ Luật Hình Sự năm 1999, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội.


    Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2003


    Các wedsite: - vi.wikisource.org/ ./


    Diendanphapluat.vn
    Café.luat.vn
    Chinhphu.vn
    Moj.gov.vn
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...