Tài liệu Bài lớn dân sự M2

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC

    MỞ ĐẦU 1

    NỘI DUNG 2

    I. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 2

    1, Khái niệm. 2

    2. Đặc điểm. 2

    II. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể. 6

    1. Thi thể là gì? 6

    2. Xác định hành vi xâm phạm thi thể. 7

    3, Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. 7

    a. Hành vi xâm phạm thi thể gây ra thiệt hại. 8

    b. Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi có lỗi. 9

    c. Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi trái pháp luật và trái với ý chí của người có thi thể khi còn sống. 9

    d, Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm thi thể và hậu quả xảy ra. 11

    4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể. 12

    5. Nhận xét: 15

    KẾT LUẬN 15

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16















    MỞ ĐẦU

    Chúng ta biết rằng bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng là một trong những chế định có sớm nhất của pháp luật dân sự. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do thiệt hại. Khi một người thực hiện một hành vi trái pháp luật, có lỗi gây ra thiệt hại cho người khác, hành vi của họ thực hiện có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại xảy ra là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường. Có nghĩa trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng là một chế định pháp lí đặc biệt, trong đó chủ thể gây thiệt hại phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vấn đề này và thông qua một chế định cụ thể và hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật.

    NỘI DUNG

    I. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

    1. Khái niệm.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

    Theo quy định của Bộ Luật dân sự (BLDS) năm 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” (Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005).

    2. Đặc điểm.

    Nói đến trách nhiệm bồi thường là nói đến việc buộc một người phải thực hiện một hành vi hoặc có trách nhiệm gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc về nhân thân của người mang trách nhiệm đó vì lợi ích của bên được bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiện dân sự phát sinh trong đời sống xã hội nhằm quy trách nhiệm pháp lí đối với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị xâm hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự như:

    + Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm pháp luật là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ của người có nghĩa vụ.

    + Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm mang tính tài sản. Lợi ích mà các bên hướng tới trong các quan hệ nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng liên quan trực tiếp tới tài sản, vì vậy, việc vi phạm nghĩa vụ của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích vật chất của bên kia. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm là hải bù đắp cho bên bị vi phạm những lợi ích vật chất

    + Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là quan hệ giữa hai chủ thể độc lập có địa vị pháp lý bình đẳng, và bên vi phạm phải gánh chịu trực tiếp trước bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm chứ không phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước hoặc người khác. Trách nhiệm dân sự được áp dụng với người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể áp dụng đối với người khác (người đại diện cho người chưa thành niên)

    + Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương ứng với hậu quả của hành vi vi phạm, đó là mức độ tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà người thiệt hại phải gánh chịu thỏa mãn với quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại, khắc phục những hậu quả về vật chất cho người bị thiệt hại.

    Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.

    So với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có một số đặc điểm khác biệt như sau:

    - Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác thì trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, trách nhiệm phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên chỉ có thể là trách nhiệm theo hợp đồng ví dụ như buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, phạt vi phạm và hoặc BTTH.

    - Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, BTTH theo hợp đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải BTTH

    - Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề . Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. Hay nói các khác, các chủ thể trong hợp đồng không thể thoả thuận bất kỳ ai không tham gia hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm BTTH mà không được sự đồng ý của họ.

    - Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với BTTH theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh trách nhiệm BTTH thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên thoả thuận.

    Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện cụ thể là: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, phải có lỗi của người gây thiệt hại và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra với hành vi trái pháp luật. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người cũng như để luật Dân sự được thực hiện phổ biến và dễ dàng trong các trường hợp cụ thể, pháp luật Dân sự đã dự liệu và quy định tương đối đầy đủ về các trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể xảy ra như bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng, do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, do người dùng chất kích thích gây ra, do nhiều người cùng gây ra

    Tại điều 628 BLDS – 2005 đã quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể, đây là một trong hai quy định mới của BLDS – 2005. Trong các bộ luật trước đây đã không quy định vấn đề này, vì là một trong những vấn đề mà thực tế có nhiều vướng mắc nên khi sửa đổi luật cho phù hợp với thực tế, BLDS – 2005 đã quy định cụ thể trong phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về quy định này.

    II. Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể.

    Như chúng ta đã biết BLDS năm 1995 không quy định bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể lần đầu tiên được đề cập trong BLDS được sủa đổi năm 2005. Vậy thi thể là gì? Tại sao đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể và ý nghĩa của nó ra sao? Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu rõ hơn về quy định này:

    1. Thi thể là gì?

    Khi nói đến thi thể thì thi thể được hiểu là xác của một cá nhân đã chết mà sau khi chết chưa được mai táng, điện táng, hay chưa được hóa thân bằng các hình thức khác theo phong tục, tôn giáo mà người chết theo. Khi đó thực thể đó đã chấm dứt sự (quá trình) trao đổi chất, toàn thể các yêu tố tự nhiên cấu thành thực thể không còn khả năng trao đổi chất với môi trường bên ngoài dưới bất kì hình thức nào. Thi thể gắn liền với cá nhân có thi thể đó. Khi cá nhân chết, địa vị chủ thể của cá nhân trong các quan hệ xã hội cũng đồng thời xuất hiện khi cá nhân chết. Thi thể cá nhân là đối tượng được pháp luật bảo vệ, khi cá nhân chết để lại thi thể và thi thể đó gắn liền với cá nhân của người chết, không thể dịch chuyển, thay thế cho cá nhân khác. Thi thể của cá nhân không những được bảo vệ bằng pháp luật mà còn được bảo vệ bằng đạo đức, phong tục tập quán, quan niệm của xã hội. Như vậy, theo pháp luật, theo phong tục tập quán, theo tôn giáo, hay theo quan niệm của xã hội thì thi thể của cá nhân là thực thể thiêng liêng, không thể xâm phạm. Tuy nhiên trên thức tế, vì một lí do nào đó, thi thể có thể bị xâm phạm do hành vi cố ý hoặc vô ý của người khác. Thi thể của cá nhân có thể bị tác động dưới các biện pháp sinh học hoặc cơ học và hậu quả của tác động đó sẽ làm thay đổi, biến dạng thi thể cả nội tạng và hình thức xác của cá nhân do quá trình giải phẫu, bị lấy đi bộ phận cơ thể để nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm, phát hiện nguyên nhân gây bệnh Việc xác định hành vi xâm phạm thi thể của cá nhân rất cần thiết trong việc xác định bồi thường thiệt hại. Hành vi nào bị coi là hành vi xâm phạm thi thể, hành vi nào không bị coi là hành vi xâm phạm thi thể, mối quan hệ giữa hành vi xâm phạm với các quan hệ khác có liên quan đến sự tác động đến thi thể của cá nhân như thế nào? Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm đó ra sao?

    2. Xác định hành vi xâm phạm thi thể.

    Hành vi xâm phạm thi thể của cá nhân là hành vi do lỗi cố ý hoặc vô ý mà xâm phạm đến thi thể của người khác, hành vi xâm phạm thi thể được xác định theo mục đích thực hiện hoặc hậu quả do hành vi xâm phạm thi thể gây ra. Hành vi xâm phạm thi thể có thể do một cá nhân hoặc nhiều cá nhân xâm phạm đến tính toàn vẹn của cơ thể con người, dẫn đến hậu quả thi thể của cá nhân bị biến dạng, thiếu hụt các bộ phận tự nhiên vốn có của con người đang được bảo vệ.

    3, Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Cùng là xâm phạm đến thi thể của một cá nhân nhưng không phải trong tất cả các trường hợp đều là trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra. Để xác định hành vi đó có xâm phạm trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường hay không ta phải dựa vào căn cứ pháp luật. Khi xác định bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể ta phải dựa trên những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại chung theo Điều 604 BLDS- 2005:

    a. Hành vi xâm phạm thi thể gây ra thiệt hại.

    Như đã nói ở trên, thi thể là xác của một cá nhân đã chết mà sau khi chết chưa được mai tang, điện táng, hay chưa được hóa thân bằng các hình thức khác theo phong tục, tôn giáo mà người chết theo. Khi một cá nhân chết đi, ban đầu khi tồn tại là một thi thể thì thi thể của cá nhân đó vẫn có tính toàn vẹn của cơ thể một con người. Tuy nhiên, dưới tác động dưới các biện pháp sinh học hoặc cơ học và hậu quả của tác động đó sẽ làm thay đổi, biến dạng thi thể cả nội tạng và hình thức xác của cá nhân có thi thể đó. Khi thi thể của một cá nhân bị xâm phạm, thì theo phong tục tập quán hay theo quan niệm của nhân dân về những điều thiêng liêng thì những người đang sống, những người thân thích với cá nhân có thi thể phải thực hiện hiếu, nghĩa của mình với người đã chết. Chính vì thế, họ bảo vệ thi thể của người đã chết bằng cách chôn cất, hỏa táng hay bằng các hình thức khác theo phong tục của mình. Nếu khi chưa thực hiện các hình thức đó mà thi thể bị xâm phạm thì bằng cách nào đó họ sẽ khôi phục lại đảm bảo tình toàn vẹn của thi thể. Trên thực tế thì họ sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức cũng như tài sản cho việc tìm lại và khôi phục hiện trạng về hình thức xác cho thi thể. Đó chính là những thiệt hại do hành vi xâm phạm thi thể gây ra. Khi một thi thể bị xâm phạm thì sẽ dẫn đến việc thi thể đó bị mất di, thiếu hụt một số bộ phận của thi thể, làm cho thi thể không còn tính toàn vẹn và ảnh hưởng đến quan niệm về những điều thiêng liêng những người đang sống, những người thân thích với cá nhân có thi thể.

    b. Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi có lỗi.

    Do lỗi cố ý hoặc vô ý mà cá nhân xâm phạm đến tính toàn vẹn của cơ thể con người làm thi thể của cá nhân bị biến dạng thiếu hụt các bộ phận tự nhiên vốn có của con người. Chỉ những hành vi lấy mô, bộ phận cơ thể người nhằm phục vụ cho những nhu cầu lợi ích cho cá nhân khác và cho việc nghiên cứu khoa học hoặc dùng để điều trị bệnh theo nguyện vọng của cá nhân khi còn sống tuân thủ theo các quy định tại điều 11 Luật hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác được quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 mới không bị coi là hành vi xâm phạm thi thể của cá nhân.

    c. Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi trái pháp luật và trái với ý chí của người có thi thể khi còn sống.

    Khi còn sống người có thi thể đã thể hiện ý chí định đoạt việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học, thì sau khi người đó chết cá nhân, cơ quan được chỉ định nhận xác hoặc lấy bộ phận cơ thể của người đó với mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học được phép thực hiện theo ý chí của người có thi thể. Ngược lại khi còn sống người có thi thể không thể hiện ý chí định đoạt việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học thì không ai có quyền lấy bộ phận cơ thê hoặc xác của người đó sau khi chết. hành vi lấy bộ phận cơ thể hoặc xác của cá nhân trái với ý chí của cá nhân khi còn sống là hành vi trái pháp luật và lỗi của người lấy xác hoặc bộ phận cơ thể của người chết đó được xác định là lỗi cố ý. Trong một số trường hợp cá nhân xâm phạm đến thi thể của người khác do lỗi vô ý như việc một cơ sở chữa bệnh đã xác định sai thời điểm cá nhân chết nhưng thực chất cá nhân đã chết cho nên vẫn tiến hành phẫu thuật với mục đích điều trị cho người đó. Đây cũng là hành vi xâm phạm thi thể của cá nhân. Tuy nhiên, sự kiện này ít được phát hiện do chính mục đích điều trị bệnh chi phối mà mọi người không quan tâm đến, bỏ sót trường hợp đặc biệt này. Nếu xét về mặt pháp lí thì cơ sở chữa bệnh đó đã vô ý xâm phạm đến thi thể của cá nhân. Trên thực tế chúng ta cũng thấy rằng có trường hợp những người thân thích của người có thi thể đã hiến thi thể của người chết cho cá nhân, cơ sở y tế nhằm mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học trái với ý chí của người có thi thể khi còn sống, đây cũng là hành vi cố ý và trái pháp luật. Theo nguyên tắc của pháp luật hiện hành thì bất kì hành vi nào xâm phạm đến thi thể của cá nhân ngoài ý chí của cá nhân đó khi còn sống, cho dù đó là hành vi cố ý hay vô ý cũng đều là hành vi trái pháp luật. Nguyên tắc này nhằm ngăn chặn các hành vi vô đạo đức có thể có trong xã hội và bảo vệ thi thể cũng như quyền và lợi ích của những người liên quan. Chúng ta không thể chấp nhận các hành vi xâm phạm đến thi thể của cá nhân trái với ý chí của người đó khi còn sống, đồng thời cũng không thể bảo vệ những hành vi trái pháp luật của người thân thích của cá nhân có thi thể khi những người đó không thực hiện hiếu nghĩa của mình đối với người chết như mai táng, hoa thân hoặc thực hiện các hình thức chôn cất khác theo phong tục tập quán. Chỉ trong trường hợp bộ phận cơ thể được lấy đi để nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm, phát hiện nguyên nhân gây bệnh theo một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi bộ phận cơ thể được lấy, thi thể bị biến dạng giải phẫu phục vụ các công việc nói trên thì cá nhân, cơ quan tiến hành các công việc theo một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ không bị coi là hành vi trái pháp luật, xâm phạm thi thể và chủ thể thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm dân sự.

    d, Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm thi thể và hậu quả xảy ra.

    Hành vi xâm phạm thi thể dẫn đến hậu quả là thay đổi về mặt cơ học của thi thể: Thi thể bị biến dạng về hình thức hay bị lấy đi các bộ phận có thể trái với ý chí của người có thi thể khi còn sống hoặc không dựa trên một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào. Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi trái pháp luật và dẫn đến hậu quả như trên. Những hành vi xâm phạm thi thể có thể là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp thì người có hành vi đó phải bơi thường thiệt hại. Chúng ta biết rằng hậu quả của xâm phạm thi thể không phải là thiệt hại về tài sản vì thi thể của con người không phải là tài sản. Người xâm phạm thi thể không phải bồi thường về những bộ phận cơ thể hay thi thể bị xâm phạm mà là bồi thường thiệt hại về khoản tài sản là những chi phí hợp lí để hạn chế, khắc phục thiệt hại. Những chi phí liên quan đến thi thể bị xâm phạm có thể xác định được đó là: Chi phí tìm kiếm thi thể bị cất dấu, chi phí thu hồi bộ phận cơ thể bị lấy trộm, chi phí cho việc tìm lại các bộ phận có thể bị lấy cắp, chi phí khôi phục tính nguyên trạng của thi thể

    Theo quy định tại điều 604 BLDS về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ta thấy rằng hành vi xâm phạm thi thể có đủ các yếu tố đó và chính vì vậy cá nhân xâm phạm thi thể của người khác phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại.

    4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể.

    Điều 628 BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể như sau:

    “1. Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác xâm phạm thi thể phải bồi thường thiệt hại.

    2. Thiệt hại do xâm phạm thi thể gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.

    3. Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.

    Theo quy định trên ta thấy tồn tại một quan hệ có hai bên chủ thể:

    + Người phải bồi thường: Là người có hành vi xâm phạm thi thể của người khác và được xác định là phải bồi thường theo các căn cứ tại điều 628 BLDS. Người có hành vi trái pháp luật xâm phạm thi thể của người khác thì phải bồi thường khoản chi phí hợp lí để hạn chế, khắc phục thiệt hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời. Người gây thiệt hại do xâm phạm thi thể có lỗi cố ý vì vậy không thể giảm mức bồi thường thiệt hại theo khoản điều 605 BLDS. Nếu trong trường hợp nhiều người cùng xâm phạm thi thể và gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm liên đới trong việc bồi thường. Người phải bồi thường có thể là cá nhân, có thể là pháp nhân (trong trường hợp người của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân giao), có thể là người sử dụng lao động làm công, học nghề có hành vi xâm phạm thi thể. Việc xác định bồi thường thiệ hại do xâm phạm thi thể cũng theo những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại các điều 616, điều 618, điều 619, điều 620, điều 621, điều 622 BLDS.

    + Người được bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần: Theo quy định tại khoản 3 Điều 628 BLDS: “Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”

    Thì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người có thi thể như: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi sẽ được hưởng khoản tiền bồi thường theo mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu. Theo quy định này thì khoản tiền bù đắp không thể coi là tài sản thừa kế, khoản tiền này chỉ có người thân thích của người có thi thể ở hàng thừa kế thứ nhất được hưởng, nếu không có những người thừa kế tại hàng này thì người xâm phạm thi thể và gây thiệt hại sẽ không phải bồi thường. Số tiền này không thể chuyển cho người thừa kế ở hàng sau theo nguyên tắc hưởng thừa kế thế vị của pháp luật. Tại khoản 3 Điều 628 BLDS còn quy định nếu không có những người tại hàng thừa kế thứ nhất của người chết thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Đó không phải là những người thuộc trường hợp quy định tại điều 678, điều 679 BLDS.

    Như vậy, theo pháp luật quy định thì ta xác định thiệt hại do xâm phạm thi thể bao gồm:

    + Chi phí hợp lí để hạn chế, khắc phục thiệt hại: Đây là những chi phí thực tế mà gia đình người bị thiệt hại bỏ ra để han chế, khắc phục thiệt hại như các chi phí cho việc tìm kiếm thi thể, các bộ phận của thi thể, chi phí giám định, xét nghiệm, chi phí cho việc bảo quản, vận chuyển

    + Ngoài chi phí cho việc hạn chế, khắc phục thiệt hại như đã nêu ở trên thì người gây thiệt hại do hành vi xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp về tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người có thi thể. Việc xác định mức tổn thất tinh thần của những người thân thích của người chết là vấn đề hết sức khó khăn. Để có cơ sở làm căn cứ cho việc buộc người gây thiệt hại về thi thể phải bù đắp về tinh thần thì cần căn cứ vào mối quan hệ giữa người đã chết với những người thân thích này. Pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên về mức bồi thường bù đắp về tinh thần, trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì mức tiền bồi thường cho tổn thất về tinh thần do xâm phạm thi thể mà những người của người chết được hưởng tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định vào thời điểm xét xử, giải quyết việc bồi thường.

    5. Nhận xét:

    Chúng ta thấy rằng việc BLDS năm 2005 sửa đổi điều 628 về vấn đề cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác xâm phạm thi thể phải bồi thường thiệt hại là một bước hoàn thiện của luật này. Đây là một quy định mới, dự liệu thêm một tình huống xảy ra trong thực tế. Nhờ có quy định này mà khi có hành vi xâm pham đến thi thể của người chết chúng ta có thể áp dụng nó để bảo vệ quyền và lợi ích của những người có liên quan và đảm bảo cho thi thể không những được bảo vệ bằng đạo đức, phong tục tập quán, quan niệm của xã hội mà còn bảo vệ bằng pháp luật. Qua đó có thể thấy rằng pháp luật dân sự Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Đây là sự khẳng định và ghi nhận đồng thời là cơ sở pháp lí quan trọng cho cá nhân trong việc thực hiện các quyền của mình. Các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được ghi nhận trong BLDS năm 2005 thể hiện sự tôn vinh của pháp luật đối với các giá trị đích thực của con người, điều này đúng với bản chất của Nhà nước ta: Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

    KẾT LUẬN

    Như vậy, qua việc tìm hiểu về một chế định cụ thể, chúng ta đã hiểu rõ hơn các quy định về của pháp luật dân sự việc bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của con người. Và cũng qua việc quy định các vấn đề cụ thể đó sẽ bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức về pháp luật và tuân thủ pháp luật một cách phổ biến trong đời sống xã hội. Đồng thời giúp chúng ta nâng cao được vốn kiến thức pháp luật của mình và áp dụng những quy định của pháp luật vào thực tiễn một cách dễ dàng để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong cuộc sống.



















    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2006.

    2. TS. Đinh Trung Tụng, Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân Sự 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2005.

    3. Bộ Luật Dân Sự Việt Nam 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2009.

    4. Một số trang web:

    www.vietbao.com.vn

    www.violet.vn
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...