Tài liệu Bài giảng chính trị

Thảo luận trong 'CNXH Khoa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Bài 1

    CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC

    (4 tiết)

    I. VẬT CHẤT

    1. Bản chất của thế giới.

    a. Quan điểm duy tâm về bản chất của thế giới:

    * Quan điểm duy tâm cho rằng: bản chất của thế giới là ý thức.

    Theo quan điểm này, trong mối quan hệ giữa vât chất và ý thức thì ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý thức quyết định vật chất; Ý thức là cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

    - CNDT có hai loại: CNDT khách quan và CNDT chủ quan.

    + CNDTKQ là trường phái triết học cho rằng : Ý thức không phải là ý thức của con người, mà là một thực thể tinh thần siêu vật chất, có trước thế giới vật chất, sinh ra và quyết định thế giới vật chất, có nhiều tên gọi khác nhau như: “Ý niệm”, “Ý niệm tuyệt đối”, “ tinh thần thế giới”. Tiêu biểu cho quan điểm này là Platon và Hêghen.

    Ví dụ: CNDTKQ quan niệm rằng: Thượng đế là đấng sáng tạo ra thế giới

    + CNDTCQ cho rằng: Ý thức, cảm giác của con người là cơ sở quyết định sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Họ cho rằng: “sự vật chỉ là tổng hợp của cảm giác”, “xoá bỏ cảm giác là xoá bỏ sự vật”.

    Tiêu biểu cho quan điểm trên là hai nhà triết học người Anh thế kỷ XVIII Becơly và Hium.

    b, Quan điểm duy vật về bản chất của thế giới.

    * Quan điểm DV khẳng định rằng: bản chất của thế giới là vật chất. Ngoài thế giới vật chất ra không có thế giới nào khác. Các sự vật, hiện tượng chỉ là biểu hiện cụ thể những dạng khác nhau của thế giới vật chất mà thôi.

    - Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất vào đầu có con người. Điều này đã được những khoa học cụ thể và thực tiễn chứng minh.

    - Trong lịch sử triết học CNDV được biểu hiện dưới những hình thức:

    + CNDV cổ đại, mộc mạc, chất phác gắn với phép biện chứng sơ khai, tự phát

    + CNDV siêu hình, máy móc TK XVII - XVIII (là phương pháp xem xét thế giới trong thế cô lập, không vận động).

    + Đỉnh cao là CNDV biện chứng của Mác và Ănghen ( xem xét sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới trong sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau).

    Quan điểm DV khẳng định bản chất của thế giới là vật chất tồn tại khách quan là quan điểm đúng dắn, khoa học. Nó đã đem lại cho con người niềm tin vào sức mạnh của mình trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.

    * Ngoài ra, còn có quan điểm Nhị nguyên cho rằng: vật chất và ý thức là hai nguyên thể đầu tiên cùng song song tồn tại. Không cái nào có trước, cái nào có sau; không cái nào quyết định cái nào. Thực chất quan điểm Nhị nguyên chỉ là một dạng của CNDTCQ cho rằng: ý thức tồn tại không lệ thuộc vào vật chất.

    2. Phạm trù vật chất.

    a, Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mac.

    * Thời cổ đại: Các nhà triết học duy vật Phương Đông cũng như Phương Tây đều có xu hướng đi tìm khởi nguyên vũ trụ, từ một dạng vật thể nào đấy.

    Ở Phương tây: Talet cho là - Nước; Anaximen cho là - không khí; Hêraclit cho là - Lửa; Đêmôcrit cho là - nguyên tử

    Ở Phương đông: phái Charơvac (Ấn Độ) cho là 4 yếu tố: đất, nước, không khí, lủa; phái Ngũ hành (Trung Quốc) cho là 5 yếu tố: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ . họ xem đó là vật nguyên thuỷ, có trước sinh ra mọi vật gọi là vật chất.

    * Thời cận đại: lịch sử triết học đã xác nhận công lao to lớn của các nhà triết

    học duy vật thời kỳ này: Bêcơn, Hôpxơ, Xpinôda, Điđrô, Hônbach . đã có những đóng góp nhất định vào việc phát triển quan niệm về vật chất.

    Chẳng hạn: Xpinôda quan niệm: vật chất là nguyên nhân của bản thân nó, với vô số những thuộc tính vốn có. Đặc biệt là Hônbách đã tiến gần đến phạm trù vật chất. Theo ông: “ vật chất là tất cả những gì tác động vào giác quan ta. Những đặc tính khác nhau của các chất mà ta biết được là nhờ cảm giác”

    Đến cuối TK XIX đầu TK XX vật lý học phát triển, người ta phát hiện ra những dạng mới của vật chất như dạng trường, hạt . quan niệm về vật chất được tiến thêm một bước song cũng không thoát khỏi quan niệm siêu hình về vật chất. Sai lầm chung có tính phổ biến của tất cả những quan niệm trên về vật chất là đã đồng nhất vật chất với vật thể, quy vật chất về một dạng vật thể nào đó.

    b, Quan nệm triết học Mác - Lênin về vật chất.

    Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của các nhà triết học trước đây, đặc biệt là tư tưởng của Mác và Ănghen về vật chất , cùng với thành quả của khoa học tự nhiên và nhu cầu thực tiễn Lênin đã đưa ra một định nghĩa khoa học về phạm trù vật chất như sau:

    “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

    * Định nghĩa trên có những nội dung cơ bản sau:

    - “Vật chất là một phạm trù triết học”. Với tính cách là một phạm trù triết học, vật chất không tồn tại cảm tính, nghĩa là nó không đồng nhất với các dạng tồn tại cụ thể, mà ta thường gọi là vật thể. Vật thể là những cái có hạn, có sinh, có diệt và chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Còn vật chất là vô cùng, vô tận, vô sinh, vô diệt. Vậy không thể quy vật chất về vật thể và cũng không thể đồng nhất vật chất với vật thể.

    - Thuộc tính chung nhất của vật chất là “ thực tại khách quan”, tồn tại bên ngoài không lệ thuộc vào cảm giác. Như đã biết, là vật chất vô tận, vô hạn, nên có vô vàn những thuộc tính, trong đó thuộc tính chung nhất là “thực tại khách quan”. Nó được xem là tiêu chuẩn để phân biệt giữa vật chất với những cái không phải là vật chất, kể cả trong tự nhiên lẫn xã hội. Có nghĩa là, bất cứ cái gì tồn tại khách quan đều là vật chất, và ngược lại, cái gì tồn tại không khách quan thì đều không phải là vật chất.

    - vật chất “được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lai, chép lại, phản ánh” . vật chất tồn tại khách quan, nhưng không phải tồn tại trừu tượng, mà tồn tại hiện thực qua các sự vật cụ thể. Khi tác động vào giác quan, gây nên cảm giác. Được cảm giác chúng ta ghi lại, chứng tỏ con người nhận thức được thế giới.

    * Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa to lớn:

    - Nó đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật biện chứng, khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất. Qua đó tự nó chống lại những quan điểm duy tâm, siêu hình, bất khả tri, trong quan niệm về vật chất.

    - Định nghĩa này đã trang bị thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học, mở đường cho các ngành khoa học cụ thể phát triển, đi sâu vào thế giới tìm thêm những dạng mới của vật chất, đem lại niềm tin cho con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.

    3. Vận động của vật chất.

    a, Định nghĩa vận động

    Vận động hiểu theo nghĩa hẹp, giản đơn là sự di chuyển vị trí trong không gian. Còn vận động được hiểu theo nghĩa đầy đủ, khoa học như Ănghen chỉ ra:

    “ Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, bao gồm tất thảy mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”

    Định nghĩa trên bao gồm những nội dung cơ bản sau:

    - Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất nghĩa là vật chất tồn tại bằng phương thức vận động, không có vận động thì vật chất không tồn tại.

    - Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động và vật chất không thể tách rời nhau. Không ở đâu (xét về không gian), không khi nào (xét về thời gian), có vật chất mà không có vận động, cũng như có vận động mà không có vật chất.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...