Sách Bài giảng chi tiết Hệ thống pháp luật nhà nước

Thảo luận trong 'Sách Ngoại Ngữ' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Bài giảng chi tiết Hệ thống pháp luật nhà nước (100 trang)

    BÀI 1

    NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
    I/ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
    1. Nguồn gốc của Nhà nước
    a. Các quan điểm phi Mac xít
    · Thời kỳ cổ, trung đại
    Thuyết thần học cho rằng thượng đế là người sáng tạo ra xã hội loài người, là người sắp đặt trật tự xã hội, do vậy nhà nước được xem là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cửu.
    Thuyết gia trưởng thì cho rằng nhà nước là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, là kết quả phát triển của hình thức gia đình. Vì vậy, nhà nước có trong mọi xã hội và quyền lực của nhà nước về bản chất cũng giống như quyền của người gia trưởng trong gia đình.
    · Thế kỷ 16, 17, 18
    Đa số các học giả tư sản đều thống nhất quan điểm với Thuyết khế ước xã hội, thuyết này cho rằng sự hình thành nhà nước là kết quả của khế ước (hợp đồng) được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Vì vậy, nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên trong xã hội đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ và bảo vệ lợi ích cho họ. Quan điểm này chống lại sự chuyên quyền độc đoán của nhà nước phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia nắm giữ quyền lực nhà nước, đồng thời bác bỏ quan điểm của thuyết thần học về sự ra đời của nhà nước. Thuyết khế ước xã hội có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn thể hiện ở vai trò quan trọng của nó đối với việc ra đời học thuyết sau đó, thuyết khế ước xã hội được xem là tiền đề cho thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản lật đổ ách thống trị phong kiến. Tuy nhiên học thuyết này vẫn có những hạn chế căn bản như: giải thích nguồn gốc nhà nước trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm: nhà nước ra đời do ý chí chủ quan của các bên tham gia khế ước; quan điểm này mang tính siêu hình không giải thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước. Một số nhà tư tưởng tiêu biểu cho thuyết này là: Thomas Hobben (1588-1679), John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1775)
    Thuyết bạo lực cho rằng, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một hệ thống cơ quan đặc biệt để nô dịch kẻ chiến bại đó là nhà nước. Đại diện tiêu biểu của thuyết này là Gumplôvich và E. Đuyring.
    Thuyết tâm lý cho rằng, nhà nước ra đời do nhu cầu về tâm lý của con người, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội. Đại diện tiêu biểu của thuyết này là L.petơraziki, phơreder
    Thậm chí còn xuất hiện quan niệm “nhà nước siêu trái đất” cho rằng, xã hội loài người và nhà nước ra đời là kết quả của một nền văn minh ngoài trái đất
    Do nhiều nguyên nhân khác nhau những học thuyết và quan điểm trên đều mang tính siêu hình, chưa giải thích đúng về nguồn gốc của nhà nước.
    b. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin
    Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, nhà nước xuất hiện mang tính khách quan không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vân động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển không còn nữa. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định với các tiền đề về kinh tế và tiền đề xã hội.
    - Tiền đề kinh tế: xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
    - Tiền đề xã hội: xã hội phân chia thành các giai cấp, các tầng lớp khác nhau về lợi ích, mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp không thể tự điều hoà được.
    Cộng sản nguyên thuỷ là xã hội đầu tiên trong lịch sử, chưa có chế độ tư hữu, chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước và pháp luật nhưng những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước và pháp luật lại nảy sinh trong chính xã hội đó.
    Xã hội cộng sản nguyên thuỷ được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trong xã hội đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khả năng nhận thức của con người còn thấp luôn bị đe doạ và bất lực trước thiên nhiên nên con người phải dựa vào nhau để tồn tại, cùng lao động và cùng hưởng thụ. Mọi người đều bình đẳng với nhau, không ai có tài sản riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, xã hội chưa phân chia thành các giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
    Công cụ lao động ngày càng được cải tiến, khả năng nhận thức của con người ngày càng được nâng cao cộng với những kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình lao động, sản xuất đã làm cho phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ thay đổi, đòi hỏi phải có sự phân công lao động trong xã hội. Lịch sử đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn, đó chính là những bước tiến làm sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Lần phân công lao động thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt trở thành một ngành kinh tế độc lập từ quá trình thuần dưỡng những con vật mà con người có được khi săn bắt tự nhiên, chính những đàn gia súc được thuần dưỡng đã trở thành nguồn tài sản tích luỹ quan trọng là mầm mống của chế độ tư hữu. Lần phân công lao động thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp làm xuất hiện một tầng lớp mới trong xã hội, đẩy nhanh quá trình phân hoá giàu nghèo làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng. Lần phân công lao động thứ ba thương nghiệp phát triển làm xuất hiện một giai cấp không trực tiếp tham gia vào lao động sản xuất, chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm nhưng chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế, đó là giai cấp thương nhân. Sự bành trướng của thương mại kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền - hàng hoá của các hàng hoá, nạn cho vạy nặng lãi, quyền tư hữu về ruộng đất và chế độ cầm cố. Tất cả những yếu tố đó làm cho của cải tập trung vào trong tay của số ít người giàu có, đồng thời thúc đẩy sự bần cùng hoá của quần chúng và sự tăng nhanh của đám đông dân nghèo. Số nô lệ tăng lên rất đông, sự cưỡng bức và bóc lột của giai cấp chủ nô ngày càng nặng nề.
    Những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực, đứng trước những biến đổi của cơ cấu xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt xung đột giai cấp và nhà nước ra đời.
    Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định đó là khi xuất hiện chế độ tư hữu và có sự phân chia giai cấp có lợi ích mâu thuẫn đến mức không thể điều hoà được. Nhà nước không phải là một hiện tượng bất biến, vĩnh cửu mà có quá trình vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện tồn tại không còn.
    2. Bản chất của Nhà nước
    Bản chất và ý nghĩa của nhà nước luôn là đối tượng của những cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đây cũng là một trong những vấn đề khó nhất, là “trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị”. Có nhiều luồng quan điểm khác nhau của những nhà triết học, lịch sử, chính trị, kinh tế học và chính luận tư sản về bản chất của nhà nước.
    Quan điểm cũ (Nhà nước nguyên nghĩa): Nhấn mạnh bản chất nhà nước đồng nhất với tính giai cấp của nhà nước, tức là nhà nước của ai? do ai? và phục vụ ai? Theo đó: Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị nhằm kìm giữ giai cấp bị trị trong vòng lệ thuộc, nhà nước là công cụ điều hoà lợi ích giai cấp, là bộ máy trấn áp giai cấp.
    Quan điểm mới (Nhà nước nửa nhà nước): Bản chất của nhà nước thể hiện ở hai mặt: tính giai cấp và tính xã hội.
    Học thuyết Mác – Lênin với phương pháp luận khoa học, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành tựu của nhiều môn khoa học đã giải thích một cách đúng đắn nhất về bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Bản chất của nhà nước được thể hiện qua tính giai cấp và vai trò xã hội của nhà nước.
    Tính giai cấp của nhà nước
    Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã kết luận: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”. Nhà nước sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
    Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt do giai cấp cầm quyền trong xã hội nắm giữ, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Nhà nước do giai cấp thống trị tổ chức ra để trấn áp các giai cấp khác vì thế nhà nước được xem là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị.
    Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí của nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với các giai cấp khác trong xã hội.
    Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện ở ba loại quyền lực bao gồm: quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị và quyền lực tư tưởng.
    Quyền lực kinh tế: giai cấp nào trong xã hội hội nắm giữ tư liệu sản xuất thì có quyền tổ chức quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm và bắt các giai cấp khác lệ thuộc mình về mặt kinh tế. Nhờ có nhà nước giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...