Tài liệu áp dụng thuế GIá TRị GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: áp dụng thuế GIá TRị GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp

    LỜI MỞ ĐẦU
    - Tính cấp thiết của đề tài: Thuế là một phạm trù lich sử, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế được sử dụng nh­ một công cụ chủ yếu hữu hiệu để tạo lập nguồn Tài chính (Ngân sách Nhà nước) phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để thực hiện các chức năng của mình đối với nền kinh tế xã hội .Thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô, thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, ở nước ta hiện nay hệ thống thuế bao gồm nhiều loại thuế nhưng Thuế Doanh thu là một trong những sắc thuế quan trọng trong hệ thống, tuy nhiên trong quá trình thực hiện nó đã bộc lộ một số nhược điểm, nổi bật là thu chồng chéo, nhiều thuế suất ảnh hưởng không tốt đến giá cả và hạn chế sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy việc áp dụng thuế Giá Trị Gia Tăng thay thế cho thuế Doanh thu là một tất yếu, nhằm khắc phục những hạn chế của thuế doanh thu và là đòi hỏi mang tính khách quan nhằm góp phần khuyến khích sản xuất phát triển theo định hướng đổi mới. Xuất phát từ những yêu cầu trên và xuất phát từ thực trạng áp dụng Luật thuế GTGT tại công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua, em mạnh dạn chọn Đề tài : áp dụng thuế GIá TRị GIA TĂNG tại công ty Bánh kẹo Hải Hà -thực trạng và giải pháp. Làm luận văn tốt nghiệp
    - Phạm vi nghiên cứu đề tài: Đây là loại thuế mới lần đầu tiên đưa vào áp dụng ở nước ta, trong đó có những nội dung quy định khác với luật thế doanh thu và cũng không hoàn toàn giống thuế giá trị gia tăng đang áp dụng ở các nước khác trên thế giới, cho nên cần phải hiểu rõ về nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, việc chuyển từ thuế doanh thu sang thuế giá trị gia tăng không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về kỷ thuật nghiệp vụ, mà là sự thay đổi cơ bản về nội dung chính sách và biện pháp tổ chức quản lý thuế nhằm làm cho chính sách thuế phù hợp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo định hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, thích ứng với nhu cầu hội nhập trong khu vực và trên thế giới. Sự thay đổi này sẽ không dễ dàng và không tránh khỏi sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hàng vạn doanh nghiệp và nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong cả nước do đó để giúp các doanh nghiệp vượt qua những trở ngại ban đầu để phát triển trong cơ chế mới, chúng ta cần thấy hết những thuận lợi, khó khăn vướng mắc đó.
    - Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian nghiên cứu đề tài và từ thực tiễn của việc áp dụng thuế hiện nay nên trong đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứi như: Phương pháp so sánh, phương pháp trao đổi, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác
    - Nội dung nghiên cứu: Với những kiến thức có được cùng với sự nhiệt tình hướng dẫn của thầy giáo, thạc sỹ Lê Vệ Quốc và các cô chú phòng kinh doanh công ty Bánh kẹo Hải Hà. Em xin hoàn thành luận văn với những nội dung cơ bản sau:
    Phần Mét: Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng
    Phần Hai: Thuế giá trị gia tăng áp dụng tại công ty
    Phần Ba: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế giá trị gia tăng
    Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp nhằm hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu.

    Phần mét


    Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng


    1.1. khái niệm về thuế giá trị gia tăng
    1.1.1 Khái niệm, những vấn đề cơ sở lý luận chung về thuế
    - Sự cần thiết của thuế
    Thuế là một khoản thu bắt buộc cho Ngân sách Nhà nước do Nhà nước đặt ra và tổ chức thực hiện, đối với những đối tượng trong lĩnh vực nhất đÞnh. Nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước.
    Người kinh doanh trở thành nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế (Nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc hành chính)Với tác dụng ổn định nguồn thu từ đó thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế Quốc dân.
    - Thuế là công cụ điều tiết công bằng xã hội, thực hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữ các thành phần kinh tế Thể hiện rõ nét qua thuế suất.
    - Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước.
    Thuế mang tính pháp luật và trở thành nghĩa vụ của công dân vì kèm theo nó còn có biện pháp tuyên truyền giáo dục về ý thức của công dân về nghĩa vụ nộp thuế và có cả biện pháp cưỡng chế.
    7Thuế xuất hiện trong xã hội loài người do hai điều kiện: Sự xuất hiện của Nhà nước và sự xuất hiện sản phẩm thặng dư
    + Sự xuất hiện Nhà nước tạo quyền lực tập trung để Nhà nước ban hành luật lệ về thuế bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh.
    + Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong vã hội là cơ sở chủ yếu tạo khả năng và nguồn động viên về thuế
    Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá và sự mở rộng quan hệ thị trường, thuế động viên dưới dạng tiền tệ được hình thành và ngày càng phát triển. Thuế được xây dựng thành một hệ thống gồm nhiều sắc thuế phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của từng nước
    - Bản chất của thuế
    Nhà nước sử dụngthuế làm công cụ để phục vụ chức năng của mình. Nhà nước mang lại bản chất giai cấp nên bản chất của thuế gắn liền với bản chất giai cấp của từng loại Nhà nước.
    Yêu cầu động viên và mục đích của thuế tuỳ thuộc vào quan điểm từng Nhà nước, htu thuế nhằm mục đích phục vụ lợi Ých riêng của thiểu số trong giai cấp thống trị hay nhằm mục đích phục vụ lợi Ých của đại đa số của nhân dân lao động, của toàn dân.
    Thuế là một khoản đóng góp theo nghĩa vụ bắt buộc quy định trong hiến pháp
    và các văn bản pháp luật buộc mọi thành viên trong xã hội, mọi tổ chức(chủ yếu là tổ chức kinh tế) phải nộp cho Nhà nước.
    - Vai trò của thuế
    Nhiệm vụ chính trị - kinh tế xã hội của một Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu có vai trò ảnh hưởng đến nội dung và đặc điểm thuế khoá của Nhà nước, do đó cơ cấu và nội dung của từng sắc thuế phải thường xuyên được cải tiến, bổ sungvà đổi mới kịp thời phù hợp với tình hình nhiệm vụ của từng giai đoạn cụ thể của đất nước.
    Thuế có vai trò quan trọng làm lành mạnh hóa nền kinh tế quốc gia, góp phần vào kết quả của việc đổi mới đất nước, thực hiện tích cực việc cải tiến công tác hành chính thuế, từ khâu tuyên truyền giáo dục pháp luật, khâu kiểm tra, thanh tra chống thất thu Ngân sách, đưa các chúnh sách thuế vào cuộc sống . Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước số thu năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, nhằm đảm bảo cho tiêu dùng của Nhà nước.
    1.1.2. Quá trình ra đời và phát triển của thuế giá trị gia tăng
    Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rãi của quần chúng Nhân Dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Luật Thuế Doanh Thu được áp dụng ở pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, Luật Thuế Doanh Thu chỉ được đánh vào giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất thấp. Đầu năm 1920 Thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá trình sản xuất, trong thực tế cách đánh này đã khắc phục nhược điểm về tính chất trùng lắp thuế của thuế doanh thu. Nói cách khác sản xuất ra càng nhiều khâu thì thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936 Pháp đã cải tiến thuế doanh thu qua hình thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất (tức là khi sản phẩm được đưa ra tiêu thụ lần đầu). Như vậy việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá trình sản xuất, khắc phục hiện tượng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, vì chỉ khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu Nhà nước mới thu được thuế
    Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung, thuế doanh thu vẫn còn nhược điểm nổi bật là thu thuế chồng lên thuế, trùng lắp Đến năm 1954, Chính Phủ Pháp đã ban hành một loại thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng (GTGT) và được viết tắt là VAT(Value Add Tax). Lúc đầu thuế GTGT được ban hành để áp dụng trước với ngành sản xuất, chủ yếu tránh việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ trước đối với nguyên liệu, vật liệu. Đến năm 1966 trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, thuế GTGT được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu.
    Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên Thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đã có trên 100 nước áp dụng thuế GTGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mĩ la tinh, các nước trong khối cộng đồng Châu Âu (EC) và một số nước Châu Á.
    Về tên gọi có nhiều nước gọi là thuế giá trị gia tăng điển hình là Pháp, Anh, Thuỳ Điển Một số nước gọi là thuế hàng hoá dịch vụ như Canada, Niu Dilân Ở Phần lan, Áo, Đức vẫn dùng tên gọi cũ là thuế doanh thu, với quan điểm cho rằng, đây không phải sắc thuế mới mà bản chất vẫn là thuế doanh thu cũ, chỉ thay đổi nội dung biện pháp thu. Mặt khác các nước này còn có lập luận cho rằng đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị hàng nhập khẩu, nên không còn ý nghĩa thuế đánh trên giá trị tăng thêm nữa
    Nhìn chung, các nước áp dụng thuế GTGT vì thấy rõ nhược điểm của hệ thống thuế đang tồn tại ở nước họ ở các mặt.
    - Thuế doanh thu tính chồng chéo, không đáp ứng được yêu cầu của chính sách động viên hợp lý về thuế.
    - Thuế quan đối với hàng nhập khẩu có trường hợp phải miễn giảm để phục vụ quan hệ hợp tác trong khu vực hoặc trên thế giới, vừa gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa không bảo vệ nội địa.
    - Có nhiều sắc thuế làm cho hệ thống thuế trở nên nặng nề, cần phải thay thế bằng thuế giá trị gia tăng để có thể bao quát được đối tượng đánh thuế, nhằm động viên đóng góp của người tiêu dùng.
    - Sự phát triển của hệ thống thuế không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
    - Khắc phục tình trạng thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước.
    1.1.3. Thuế Giá Trị Gia Tăng.
    - Thuế Giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
    - Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng. Nó là giá trị tăng thêm đối với sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ do cơ sở sản xuất, chế biến, buôn bán hay dịch vụ tác động vào nguyên liệu thô hay hàng hoá mua vào, làm cho giá trị hàng hoá của chúng tăng thêm. Nói cách khác đây là số chênh lệch giữa “giá đầu ra” với “giá đầu vào” do đơn vị kinh tế tạo ra trong qúa trình sản xuất .
    Có hai phương pháp tính trị giá gia tăng:
    - Phương pháp cộng: Trị giá gia tăng(TGGT) là trị giá của yếu tố cấu thành giá trị tăng thêm của sản phẩm.
    TGGT = Tiền công lao động + lợi nhuận
    - Phương pháp trừ: trị giá gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá đầu ra của sản phẩm (trị giá khâu sau của sản phẩm) với giá đầu vào của sản phẩm (giá trị nguyên vật liệu mà nhà kinh tế sử dụng để tạo ra sản phẩm)
    TGGT = Giá đầu ra - Giá đầu vào
    Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu đánh vào sự tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.Thuế giá trị gia tăng do các nhà sản xuất, kinh doanh, và cung cấp dịch vụ nộp, nhưng người tiêu dùng là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Thực chất đây là loại thuế đánh vào người tiêu dùng.
    Thuế giá trị gia tăng chỉ đánh vào giá trị tăng thêm của hàmg hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất và lưu thông. Chỉ người bán hàng hoá, dịch vụ lần đầu phải nộp thuế trên toàn bộ doanh thu bán hàng, còn người bán hàng hoá, dịch vụ ở những khâu tiếp theo chỉ đóng thuế ở phần tăng thêm. Nói cách khác thuế GTGT là sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhá trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đến cuối cùng số thuế thu được ở mỗi công đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng.
    1.1.4. Căn cứ tính thuế Giá trị gia tăng:
    Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất:
    - Giá tính thuế giá trị gia tăng ;
    Theo quy định tại điều 7 Luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị định số 28/1998/NĐCP, giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá dịch vụ được xác định cụ thể nh­ sau:
    - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng.
    - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu; Giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
    Hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu, tặng. Giá tính thuế giá trị gia tăng được xác định theo giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này.
    - Hoạt động cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà xưởng, kho tàng, bến, bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị
    Giá để tính thuế GTGT là giá chưa có thuế . Trường hợp cho thuê theo từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê, giá trị gia tăng tính trên số tiền thuê trả từng kỳ hoặc trả trước, bao gồm cả chi trả dưới hình thức khác như cho thuê nhà có thu tiền hoàn thiện, sữa chữa nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu bên thuê.
    - Đối với hàng hoá trả theo phương thức trả góp, tính theo phương thức trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó (không bao gồm trả lãi góp), không tính theo số tiền trả góp từng kỳ.
    - Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế, bao gồm: Tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công.
    - Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt trang thiết bị cho các công trình xây dựng ( không phân biệt bao thầu hay không bao thầu nguyên liệu, vật tư ) giá tính thuế GTGT là giá xây dựng, lắp đặt chưa có thuế giá trị gia tăng .
    Trường hợp xây dựng lắp đặt công trình thực hiện thanh toán và theo đơn giá và tiến độ hạn mục công trình, phần công việc bàn giao thì thuế giá trị gia tăng tính trên phần giá trị hoàn thành bàn giao.
    - Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng như đại lý mua, bán hàng hoá, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới, uỷ thác xuất nhập khẩu hưởng hoa hồng, giá tính thuế GTGT là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa trừ một khoản phí tổn nào mà cơ sở thu được từ việc thực hiện hoạt động này. Hàng hoá do đại lý bán ra vẫn phải tính thuế GTGT trên giá bán ra.
    - Đối với hoạt động vận tải, bốc xếp giá tính thuế GTGT là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế giá trị gia tăng.
    - Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù, dùng các chứng từ nh­ tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết Ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng, thì giá chưa có thuế được xác định nh­ sau.

    Giá chưa có giá thanh toán (tiền vé, tiền tem)
    Thuế GTGT = ------------------------------------- ---------- 1 + (%) thuế suất của hàng hoá dịch vụ
    - Thuế suất giá trị gia tăngTheo quy định tại điều 8 Luật Thuế giá trị gia tăng và điều 7 Nghị định số 28/1998/NĐCP cuả Chính Phủ về thuế suất của thuế giá trị gia tăng được quy định nh­ sau.
    - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá hoá xuất khẩu bao gồm cả hàng hoá gia công xuất khẩu, xuất khẩu bao gồm xuất ra nước ngoài, xuất vào khu chế xuất.
    - Thuế suất 5% đối với hàng hoá dịch vụ.
    * Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt do các cơ sở sản xuất, kinh doanh nước khai thác từ nguồn nước tự nhiên cung cấp cho các đối tượng sử dụng nước (trừ nước sạch do các cơ sở tự khai thác ở nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa để phục vụ sản xuất sinh hoạt thì ở vùng đó không thuộc diện chịu thuế ).
    * Phân bón, quặng để sản xuát phân bón, thuốc trừ sâu bệnh và thuốc kích thích vật nuôi cây trồng.
    * Thiết bị dụng cụ y tế, bông băng vệ sinh y tế, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh
    * Thiết bị dụng cụ dùng để giảng dạy học tập .
    * Đồ chơi cho trẻ em, sách khoa học, kỹ thuật, sách văn học nghệ thuật, sách phục vụ thiếu nhi, sách pháp luật (trừ sách quy phạm pháp luật không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định của Nhà nước).
    * Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa qua chế biến gồm cả cây giống, con giống, hạt giống.
    * Lâm sản (trừ gỗ, măng) chưa qua chế biến thực phẩm tươi sống.
    * Sản phẩm bằng đay, cói, tre,nứa, lá
    * Bông sơ chế biến từ bông tròng trong Nước .
    * Thức ăn gia sóc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác .
    * Dịch vụ khoa học kỹ thuật .
    * Dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp.
    - Mức thuế suất 10% là mức thuế phổ biến áp dụng đối với các hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế 0%, 5%, 20%.
    - Mức thuế suất 20%áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ:
    * Vàng, bạc, đá quý do cơ sở kinh doanh mua vào bán ra .
    * Khách sạn, du lịch, ăn uống, đại lý tàu biển, dịch vụ môi giới.
    * xổ số kiến thiết và loại hình xổ số khác.
    1.1.5. Phương pháp tính thuế.
    Xuất phát từ nội dung của thuế giá trị gia tăng khi nghiên cứu thuế GTGT các nhà kinh tế đã đưa ra 4 hình thức cơ bản của thuế GTGT .
    - Hình thức thứ nhất: Thuế GTGT được tính dựa vào phương pháp trực tiếp-phương pháp kế toán- bằng cách lấy thuế suất (t) nhân (x) với giá trị tăng thêm (giá trị tăng thêm = tiền công + lợi nhuận)
    Thuế giá trị gia tăng = t x (tiền công +lợi nhuận)
    - Hình thức hứ hai: Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng được tính dựa vào phương pháp cộng gián tiếp, tức là không dựa vào giá trị tăng thêm mà căn cứ vào từng thành phần riêng biệt của nó là tiền công, lợi nhuận cụ thể.
    Thuế giá trị gia tăng=t x (tiền công) + t x(lợi nhuận)
    - Hình thức thứ ba: Thuế giá trị gia tăng được tính dựa trên phương pháp trừ trực tiếp hay phương pháp kế toán, dùng cơ sở tính giá trị tăng thêm là phần chênh lệch giữa giá đầu ra và giá đầu vào vào cụ thể:
    Thuế giá trị gia tăng = t x (giá đầu ra trừ thuế đầu vào)
    - Hình thức thứ tư: Thuế giá trị gia tăng được tính dựa vào phương pháp trừ gián tiếp (còn gọi là phương pháp hoá đơn hay phương pháp khấu trừ )
    Theo phương pháp này thuế giá trị gi tăng phải nộp được xác định trên cơ sở lấy thuế tính trên giá đầu ra trừ thuế tính trên giá đầu vào.
    Thuế giá trị gia tăng = t x (giá đầu ra) - t x (giá đầu vào)
    Trong 4 hình thức tính thuế GTGT trên thì 3 hình thức đầu tiên hầu như chỉ tồn tại về mặt lý thuyết, còn trong thực tế người ta Ýt áp dụng. Còn ở nước ta hiện nay tồn tại hai phương pháp tính cơ bản là: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp tính trên giá trị gia tăng.
    1.1.5.1. Phương pháp khấu trừ thuế
    - Đối tượng áp dụng: là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, các công ty cổ phần, hợp tác xã và cá đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng nói tại điểm dưới đây.
    - Xác định thuế giá trị gia tăng phải nộp: số thuế gía trị gia tăng phải nộp bằng(=) Thuế GTGT đầu ra trừ (-) thuế GTGT đầu vào
    trong đó ;
    + Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng (=) giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó.
    Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng chịu thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hang hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế giá trị gia tăng khi bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá dịch, dịch vụ cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế , thuế giá trị gia tăng và tổng số tiền người mua phải thanh toán, Trường hợp chỉ ghi giá thanh toán, không ghi thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ thì thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toánghi trên hoá đơn, chứng từ.
    + Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn, chứng từ GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc hoá đơn của hàng hoá nhập khẩu.
    Thuế GTGT đầu vào cơ sở được khấu trừ quy định nh­ sau.
    * Thuế đầu vào của hàng hoá dịch vụ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ.
    * Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của háng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho.
    Ví dô: Công ty Bánh kẹo Hải Hà sản xuất kẹo trong tháng 01/2000 bán ra 200 tấn kẹo, giá bán mỗi tấn là 800.000 đồng/tấn ( giá chưa có thuế) thuế GTGT phải nộp là 10% (giá mua của người thanh noán là 880.000 đồng/tấn) cũng trong tháng công ty đã mua một số nguyên liệu để dùng cho sản xuất,kinh doanh Bánh kẹo là.
    Căn cứ các chứng từ, hoá dơn GTGT mua nguyên liệu số thu
    thuế GTGT đầu vào được xác định nh­ sau:

    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Hàng hoá mua vào
    [/TD]
    [TD]đơn vị tính
    [/TD]
    [TD]Số lượng mua
    [/TD]
    [TD]Giá đơn vị tính
    [/TD]
    [TD]Thành tiền
    [/TD]
    [TD]Thuế GTGT đầu vào
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Bột mì
    [/TD]
    [TD]Tấn
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [TD]0.5trđ/tấn
    [/TD]
    [TD]50.000000
    [/TD]
    [TD]5000.000
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]đường, sữa
    [/TD]
    [TD]Tấn
    [/TD]
    [TD]100
    [/TD]
    [TD]0.4đ/tấn
    [/TD]
    [TD]40.000000
    [/TD]
    [TD]4.000.000
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]điện,dầu
    [/TD]
    [TD]KW
    [/TD]
    [TD]5000
    [/TD]
    [TD]700đ/KW
    [/TD]
    [TD] 3.500.000
    [/TD]
    [TD] 350.000
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tổng cộng
    [/TD]
    [TD]
    [/TD]
    [TD]
    [/TD]
    [TD]
    [/TD]
    [TD] 93.500.000
    [/TD]
    [TD] 9.350.000
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    - Giả định các loại nguyên liệu mua vào chỉ để sản xuất bánh kẹo, thì thuế GTGT mà công ty phải nộp trong tháng là :
    - Số thuế GTGT đầu ra, tính trên số bánh kẹo mà công ty bán ra:
    800.000đ x 200 tấn x 10% = 16.000.000 đồng
    - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là: 9.350.000 đồng.
    Số thuế GTGT công ty phải nộp trong ttháng là:
    16.000.000 - 9.350.000 = 6.650.000 đồng
    Trường hợp cơ sở kinh doanh không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng không phải hoá đơn, chứng từ GTGT hoặc hóa đơn GTGT nhưng không ghi số thuế GTGT riêng ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, trừ các trường hợp được quy định sau đây:
    + Trường hợp hàng hoá dịch vụ mua vào là loại được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có sẵn thuế GTGT thì cơ sở được căn cứ vào giá đã có thuế và để xác định giá không có thuế và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
    ví dô: Trong kỳ công ty A thanh toán dịch vụ đầu vào được tính khấu trừ là đặc thù:
    Tổng giáthanh toán 110 triệu đồng (giá có thuế GTGT), dịch vụ này chịu thuế suất 10%, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ tính nh­ sau:
    110 triệu
    ---------- x 10% =10 triệu đồng.
    1+10%
    Giá chưa có thuế là 100 triệu, thuế GTGT là 10 triệu.
    Trường hợp cơ sở mua hàng hoá nguyên vật liệu là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra không có hoá đơn sẽ được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ phần trăm(%) tính trên giá trị hàng hoá mua vào.

    1.1.5.2.Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng trực tiếp trên giá trị gia tăng
    + Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là:
    - Cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế ở Việt Nam.
    Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 66/HĐBT ngày 02/03/1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ).
    - Các hộ kinh tế gia đình sản xuất kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 29/HĐBT ngày 09/03/1998 của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ) về kinh tế gia đình bao gồm cả những hộ nông dân có hoạt động chế biến sản phẩm nông sản do mình trực tiếp làm ra.
    * Cá nhân kinh doanh lưu động (buôn chuyến)
    * Người cho thuê nhà, kho, bến bãi và các tài sản khác
    * Cá nhân nhóm cá nhân hành nghề tự do.
    * Các cá nhân, nhóm cá nhân làm việc trong các tổ chức nhận khoán, kể cả cán bộ công nhân viên làm việc trong các Doanh nghiệp Nhà Nước tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
    + Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế:
    - Căn cứ tính thuê giá trị gia tăng đối với hộ cá thể nộp theo phương pháp trực tiếp là giá trị gia tăng và thuế suất.
    Số thuế GTGT phải nộp của các hộ kinh doanh được xác định theo công thức sau:
    Số thuế giá trị gia tăng thuế suất
    GTGT = của hàng hoá, dịch x thuế
    phải nộp vụ chịu thuế GTGT

    - Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ là số chênh lệch giữa doanh số bán (đã có thuế GTGT) và doanh sè mua vào (đã có thuế GTGT ) đối với từng trường hợp cụ thể được xác định nh­ sau;
    * Đối với hộ kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán theo quy định thì giá trị gia tăng được xác định căn cứ vào doanh số bán ra của hàng hoá, dịch vụ phản ánh trên hoá đơn, chứng từ hợp lệ trừ đi doanh sè mua vào cũng phản ánh đầy đủ trên hoá đơn, chứng từ hợp lệ của hàng hoá, dịch vụ.
    Giá trị gia tăng Giá thanh toán giá thanh toán của
    Của hàng hoá, = của hàng hoá, _ hàng hoá, dịch vụ
    dịch vô dịch vụ bán ra mua vào tương ứng
    Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra là giá thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm (nếu có) mà bên mua phải thanh toán.
    Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng của hàng hoá, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào (giá mua bao gồm cả thuế GTGT ) mà cơ sở kinh doanh mua vào để sản xuất hàng hoá dịch vụ bán ra.
    Ví dô: Một Đại lý của công ty Bánh kẹo Hải Hà, đại lý này mua, bán đều có hoá đơn, chứng từ theo quy định và mở sổ sách kế toán ghi chép đầy đủ ; Trong tháng 1/2000 doanh số bán ra gồm cả thuế GTGT mà người mua đã thực trả tiền là 210 triệu, giá mua vào tương ứng với giá hàng bán ra (bao gồm cả thuế GTGT) trong tháng là 180 triệu đồng.
    Thuế GTGT mà đại lý phải nộp trong tháng 1/2000 là:
    (210triệu đồng - 180 triệu đồng ) x 10% = 3 triệu đồng.
    * Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh mà giá trị gia tăng là số chênh lệch giữa doanh số bán hàng và doanh số vật tư, hàng hoá mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở không hoạch toán được doanh số hàng hoá, vật tư, dịch vụ mua vào tương ứng với doanh số bán ra thì được xác định nh­ sau:
    Giá vốn hàng bán ra bằng(=) trị giá hàng hoá tồn đầu kỳ, cộng (+) trị giá hàng hoá mua trong kỳ, trừ (-) hàng hoá tồn cuối kỳ.
    Ví dô: Hé A kinh doanh, sản xuất đồ gỗ trong tháng bán được 150 sản phẩm, tổng doanh số bán là 25 triệu đồng, trong đó giá vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng.
    Thuế suất thuế GTGT 10% thuế GTGT hé A phải nộp
    Giá trị gia tăng cuả Sản phẩm gỗ là: 25 - 19 = 6 triệu đồng.
    Thuế GTGT hé A phải nộp trong tháng 1/2000 là :
    6 triệu đồng x 10% = 0.6 triệu đồng.
    * Đối với hoạt động xây dựng lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư, nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phuc vụ hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạn mục công trình.
    * Đối với hoạt động vận tải là chênh lệch giữa tiền cước thu vận tải, bốc xếp trừ(-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và các chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải.
    * Đối với hoạt động kinh doanh ăn uống là số chênh lệch giữa tiền thu về bán hàng hoá ăn uống, tiền phụ thu khác trừ (-) doanh số hàng hoá, dịch vụ mua ngoài dùng cho kinh doanh ăn uống.
    * Đối với hoạt động cho thuê nhà, thuê kho bãi, tài sản là chênh lệch giữa tiền thu về cho thuê trừ (-) giá vật tư, nguyên vật liệu để sửa chữa, chi phí điện nước nếu bên cho thuê phải thanh toán. Trường hợp các chi phí sửa chữa, chi phí điện nước bên đi thuê bỏ ra thì doanh thu tính thuế chính là tiền cho thuê.
     
Đang tải...