Tài liệu Áp dụng pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực hàng hải

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Áp dụng pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực hàng hải

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Việt Nam là một quốc gia có biên giới biển, có lănh hải và vùng đặc quyền kinh tế ở biển Đông với diện tích hơn 1 triệu km[SUP]2[/SUP], thêm vào đó là đặc điểm không phải quốc gia nào cũng có, đó là Biển Đông của nước ta là biển hở thông với đại dương. V́ thế, Việt Nam không những có nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo phong phú, quan trọng do thiên nhiên mang lại, mà c̣n là cơ hội giao thương với thế giới để phát triển nền kinh tế hội nhập mang nhiều thách thức, trong đó phát triển ngành hàng hải, giao thông vận tải biển, các công tŕnh ven biển, các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch và thương mại quốc tế.
    Những năm gần đây, Việt Nam đang thúc đẩy xây dựng và cải cách pháp luật dân sự nói chung và pháp luật thương mại-dịch vụ nói riêng trong đú có pháp luật Hàng hải. Trong năm 2005 với hai kỳ họp, Quốc hội đă thông qua Bộ luật Dân sự (từ đây xin viết tắt là BLDS) thay thế năm 1995 và Bộ luật Hàng hải (từ đây xin viết tắt là BLHH) thay thế năm 1990; một loạt đạo luật về tài sản và kinh doanh như Luật Thương mại (sửa đổi), Luật Nhà ở, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Sở hữu Trí tuệ và Luật đầu tư (thống nhất). Đây là các luật hết sức cần thiết và quan trọng đối với mọi thể nhân và pháp nhân kinh doanh trong khu vực nhà nước và tư nhân.
    Điều đó chứng tỏ việc đẩy nhanh quá tŕnh xây dựng các thể chế kinh tế vi mô ở nước ta, là cơ sở tạo nên môi trường kinh doanh:
    - Nhiều thể nhân và pháp nhân kinh doanh-dịch vụ;
    - Hoạt động dựa trên cơ sở quyền tự do kinh doanh;
    - Giao dịch dựa vào nguyên tắc thoả thuận, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm;
    - Mở rộng hoạt động của chi nhánh và đại diện pháp nhân;
    - Tiềm lực kinh tế bắt đầu tập trung vào các Công ty Trách nhiệm hữu hạn hay Cổ phần, các thực thể hợp danh (Patnerships), các thương nhân là chủ trang trại, hộ gia đ́nh .
    Các thể chế kinh tế vi mô như vậy đang tạo nên mạng lưới các vi mạch nuôi sống mọi tế bào xă hội, trong đó có mạng lưới các doanh nghiệp đóng tàu và dịch vụ sửa chữa tàu đang có nhiều tiềm năng hứa hẹn và nhiều thách thức, mà một trong những thách thức đó là môi trường giao dịch tài sản phi mua bán nhưng có bảo đảm giữa các chủ thể thị trường với doanh nghiệp hàng hải.
    BLHH 1990 và BLDS 1995 là sự minh chứng cho việc đặt nền móng xây dựng hệ thống pháp luật dân sự - thương mại của Việt Nam ở những năm đầu 90. Cả hai Bộ luật sau thời gian thực thi, nay được thay thế bằng các Bộ luật mới năm 2005 trên quan điểm có định hướng, kế thừa, pháp điển hóa cỏc quy định hiện hành c̣n thích hợp, vận dụng kinh nghiệm xây dựng pháp luật của nước ngoài phù hợp với điều kiện của Việt Nam và từng bước nội luật hoá pháp luật quốc tế.
    Chiến lược phát triển kinh tế-xă hội trong đó có chiến lược kinh tế biển những năm gần đây được xây dựng và hoàn thiện trong bối cảnh hội nhập, phát triển và đầy thách thức, nhất là việc thực hiện Hiệp định Thương mại giữa Việt Nam-Koa Kỳ (BTA) và việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang tính từng ngày. Chiến lược kinh tế biển của Việt Nam dựa trên mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra cho thiên kỷ mới là khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế vùng biển, ven biển, kết hợp an ninh quốc pḥng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế-xă hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đú thỡ một trong các biện pháp quan trọng nhất là xây dựng cơ cấu kinh tế vùng hướng mạnh về xuất khẩu, kết hợp khai thác kinh tế vùng ngập mặn và ven biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc phát triển thương mại-hàng hải trong một chương tŕnh liên kết các ngành kinh tế quan trọng như dầu khí, vận tải (đặc biệt là vận tải đa phương thức), kéo theo đó là công nghiệp đóng tàu, xây dựng cảng biển và dịch vụ cảng biển, tạo nên cơ cấu kinh tế công nghiệp ven biển hiện đại, nơi có số lượng và cường độ giao dịch thương mại-hàng hải diễn ra hết sức lớn.
    Ngành công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu, ngành vận tải biển trước yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu môi trường giao dịch tài sản phi mua bán trong đó có giao dịch bảo đảm (từ đây viết tắt là GDBĐ) được an toàn, giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động thương mại-hàng hải của các doanh nghiệp. Môi trường GDBĐ an toàn đối với doanh nghiệp thương mại-hàng hải trong lĩnh vực vận tải, đóng tàu thể hiện ở các đặc điểm:
    Thứ nhất, Doanh nghiệp có nhiều khả năng để có được khoản vay hoặc thanh toỏn/hoàn thành một phần hay toàn bộ nghĩa vụ đang gánh vác bằng cách đưa ra một bảo đảm nhất định bằng tài sản là con tàu của ḿnh dưới h́nh thức thế chấp tàu, trong đó có tàu đang đóng;
    Thứ hai, Khi thế chấp con tàu, quyền tài sản đối với tàu của chủ sở hữu tàu đó cú biến động, do đó sự biến động này buộc người thế chấp (hoặc người nhận thế chấp, hoặc cả hai người tuỳ pháp luật mỗi nước) phải thông báo công khai (hành vi đăng kư) việc thế chấp con tàu đó, nhằm đối kháng với người thứ ba (nếu có giao dịch khác hay tranh chấp về cùng con tàu đó);
    Thứ ba, Các chủ nợ đối với con tàu đă thế chấp khi có được thông tin về t́nh trạng pháp lư của con tàu đó, sẽ đối kháng với nhau để giành quyền ưu tiên thanh toán (theo thứ tự) từ con tàu đó, theo nguyên tắc - ai đăng kư trước sẽ giành quyền ưu tiờn thanh toán trước.
    Những vấn đề trên đặt yêu cầu cần tư duy thấu đáo hơn về GDBĐ bằng tàu biển, trên cơ sở đó đề xuất bổ sung chế định GDBĐ trong pháp luật dân sự của Việt Nam và áp dụng chế định này trong pháp luật thương mại-hàng hải trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
    Đề tài tập trung ở phạm vi GDBĐ bằng tàu biển.
    2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
    Mục đích:
    Làm rơ một số vấn đề tồn tại về mặt lư luận và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật GDBĐ trong hàng hải; đề xuất một số kiến nghị về phương hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật GDBĐ trong hàng hải.
    Nhiệm vụ:
    Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
    - Góp phần thúc đẩy môi trường nghiên cứu về GDBĐ nói chung và bảo đảm trong pháp luật hàng hải nói riêng đối với giới lập pháp và giới hành pháp;
    - Góp phần mở rộng cơ hội tăng cường nhận thức về biện pháp bảo đảm an toàn trong kinh doanh của giới doanh nghiệp;
    - Mạnh dạn đưa ra khái niệm mới, thậm chí là chế định bảo đảm mới phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm gây ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến người và cơ quan soạn thảo các văn bản pháp luật hiện nay như: Nghị định GDBĐ, Pháp lệnh đăng kư GDBĐ, Luật đăng kư bất động sản, Nghị định bắt giữ tàu biển, Nghị định về thế chấp hành hải .
    3. Phạm vi nghiờn cứu đề tài
    Trong khuôn khổ luận văn tập trung vào các vấn đề:
    3.1 Tham khảo một số học thuyết dân sự để làm cơ sở cho việc xem xét, nh́n nhận bước đầu về quá tŕnh h́nh thành chế định GDBĐ nói chung, trong hàng hải nói riêng; khái niệm GDBĐ, các khái niệm về biện pháp GDBĐ; các đặc điểm và một số quan điểm lư luận về GDBĐ nói chung và thương mại - hàng hải nói riêng của Việt Nam;
    3.2. Nêu và phân tích các bất cập về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về GDBĐ trong hàng hải (nêu lên việc thiếu một số chế định bảo đảm bằng tàu biển) để rút ra một số nguyên nhân cơ bản và bước đầu đánh giá về thể chế GDBĐ trong hàng hải;
    3.3. Bước đầu đưa ra một số kiến nghị phương hướng xây dựng và áp dụng chế định GDBĐ trong thương mại - hàng hải.
    4. Ư nghĩa thực tiễn và sự đóng góp của đề tài
    Luận văn là sự kết nối giữa tư duy và kinh nghiệm pháp lư về Dân sự nói chung với Thương mại - Hàng hải nói riêng trong lĩnh vực chuyờn sơu về GDBĐ. Một số quan điểm khảo cứu của tác giả đă có cơ hội chia sẻ với đồng nghiệp trong quá tŕnh xây dựng BLDS 2005, BLHH 2005; các Dự thảo Pháp lệnh Đăng kư GDBĐ (mới), Dự thảo Luật Đăng kư bất động sản (mới), Dự thảo Nghị định về GDBĐ (thay thế) và Nghị định số 49 ban hành Quy chế Đăng kư Tàu biển và Thuyền viên (thay thế).
    Một số đóng góp bước đầu của luận văn là:
    - Chỉ ra thiếu sót cơ bản về lư luận của chế định GDBĐ trong pháp luật dân sự;
    - Chỉ ra khoảng trống của chế định GDBĐ trong pháp luật dân sự và bất cập của việc áp dụng chế định GDBĐ trong pháp luật hàng hải;
    - Đề xuất bổ sung chế định GDBĐ áp dụng trong pháp luật hàng hải.
    5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
    Tác giả sử dụng phương pháp đối thoại, phỏng vấn đối tượng là các nhà hoạch định chính sách pháp luật, các nhà quản lư, các chuyên gia hoạt động thực tiễn; đồng thời sử dụng phương pháp Luật học so sánh xuyên suốt luận văn, trong đó chủ yếu đối chiếu pháp luật của một số quốc gia theo hệ luật Thành văn như Nhật Bản, Trung Quốc, đồng thời có so sánh với hệ Thông luật mà đại diện là Hoa Kỳ. Bên cạnh đó đặc biệt lưu ư các Điều ước quốc tế với tư cách là nguồn luật quốc gia cú tác động hiệu quả tới quá tŕnh xây dựng và áp dụng pháp luật về GDBĐ trong hàng hải. Sau cùng là việc sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, logic h́nh thức để xử lư tư liệu, thông tin.
    6. T́nh h́nh nghiên cứu đề tài
    BLHH có từ năm 1990, thực chất nó được Tổng cục đường biển (nay là Cục Hàng hải Việt Nam) khởi xướng xây dựng từ năm 1987 [1,3] ngay khi vẫn c̣n chế độ tập trung bao cấp nặng nề và có trước Hiến pháp 1992. Điều đó thể hiện những bước tiến mạnh hơn, dài hơn của BLHH 1990 so với BLDS 1995 v́ lợi thế áp dụng và tham khảo các Điều ước quốc tế, trong đó có những Điều ước quốc tế công nhận và tham gia. Năm 2005, hai bộ luật này được sửa đổi, thay thế để tiếp tục tạo môi trường pháp lư cho quá tŕnh tiếp tục đổi mới, hội nhập và phát triển.
    Bên cạnh đó, việc tác giả được tiếp cận quá tŕnh soạn thảo các văn bản pháp luật trên và việc tham gia nhiều toạ đàm về GDBĐ của Việt Nam và của các quốc gia như Nhật, Pháp, Đức, Hoa Kỳ . là cơ hội thuận lợi cho việc nghiên cứu có tính hệ thống về lư luận xây dựng thể chế dân sự nói chung trong đó có chế định GDBĐ; đồng thời là cơ hội để tham khảo, so sánh pháp luật quốc tế và của các nước phát triển và đang phát triển thuộc hai hệ thống luật Lục địa và Thông luật về Dân sự, Thương mại và Hàng hải, để tác giả đi đến các đánh giá mang tính nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng hệ thống pháp luật GDBĐ của nước ta. Đề án bảo vệ Tiến sĩ Luật học của chị Nguyễn Thị Như Mai về pháp luật hàng hải và các bài viết đă đăng tạp chí, hay những bài nghiên cứu của Tiến sĩ Luật học Nguyễn Thuư Hiền về GDBĐ đă và đang hỗ trợ cho việc nghiên cứu của tác giả.
    Đặc biệt, việc trực tiếp góp ư kiến của người hướng dẫn, giảng viên bộ môn, chuyên gia pháp luật hàng hải và biển quốc tế khiến tác giả tự tin hơn đưa ra quan điểm mới và đề xuất giải pháp.
    Tuy nhiên, các tư liệu, thông tin về nguồn gốc, lịch sử h́nh thành và phát triển chế định GDBĐ trong pháp luật dân sự nói chung và áp dụng trong pháp luật hàng hải nói riêng ở Việt Nam hầu như không có; chưa có một công bố nghiên cứu chính thức hay bài viết nào về lĩnh vực GDBĐ trong pháp luật dân sự được áp dụng thực thi trong pháp luật hàng hải; Cục Đăng kư Quốc gia Giao dịch bảo đảm của Bộ tư pháp, Cục Hàng hải Việt Nam và Cục hàng không dân dụng Việt Nam của Bộ Giao thụng-Vận tải chưa có đánh giá và đề xuất về giải pháp và mô h́nh thực thi pháp luật về GDBĐ nói chung và trong từng lĩnh vực chuyờn sơu nói riêng.
    Luận văn đang trong quá tŕnh tiếp cận bối cảnh trên.
    7. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
    Chương 1: Cơ sở lư luận của chế định giao dịch bảo đảm trong pháp luật hàng hải Việt Nam
    Chương 2: Áp dụng pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực hàng hải
    Chương 3: Phương hướng hoàn thiện chế định giao dịch bảo đảm trong pháp luật hàng hải Việt Nam






    Chương 1
    CƠ SỞ LƯ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
    TRONG PHÁP LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM


    1.1. QUÁ TR̀NH H̀NH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG LĨNH VỰC HÀNG HẢI
    1.1.1. Lược sử nguồn gốc h́nh thành pháp luật giao dịch bảo đảm Việt Nam
    Với tư cách là một thành tố trong hệ thống pháp luật dân sự, pháp luật hay c̣n gọi là chế định GDBĐ ở nước ta mang dấu ấn đặc biệt của sự h́nh thành và phát triển Nhà nước và pháp luật Việt Nam, theo đú các thời kỳ tiêu biểu có thể phân định theo cách tiện cho việc nghiên cứu, viết luận văn, gồm:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...