Tài liệu Ảnh hưởng của quan niệm triết học Trung Hoa trong điển cố

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Ảnh hưởng của quan niệm triết học Trung Hoa trong điển cố

    Việc dùng điển cổ trong văn học phương đông (chủ yếu là văn học Trung Hoa và Việt Nam) cơ bản dựa trên nguyên tắc thể hiện bằng nguồn vay mượn ý, lời từ câu văn, câu thơ hoặc trong kinh, sử, truyện của ngườI xưa. Trong những tác phẩm đầu tiên của văn học Trung Hoa như Kinh Thi hầu như chưa có điển cố. Nhưng sau khi được Khổng Tử san định và phổ biến thì chính nó trở thành kho tàng diển cố của những tác phẩm văn học sau đó. Trong thờI Chu Tần, văn học Trung hoa phát triển mạnh mẽ, nhất là tản văn triết học. Những tác phẩm của chư tử các giai đoạn này trở thành những mẫu mực cho thời đại nối tiếp, nhất là thờI Đường Tống, cả văn học lẫn triết học Trung Hoa đều rất phát triển. Những tác phẩm ưu tứ nhờ các phương tiện in ấn bổ biến rộng rãi, và đến lượt nó bổ sung thêm nguồn điển cố mới cho văn học Trung Hoa.

    Điển cố trong văn học phương Đông nói chung và văn học Trung Hoa, Việt Nam nói riêng được xem như là chất liệu mang chức năng xây dựng hình tượng một cách sâu sắc, nhiều ý nghĩa. Sự hình thành và thể hiện điển cố văn học không đơn thuần là một biện pháp tu từ mà thực tế do quan niệm triết học chi phối.

    I. Triết học Trung Hoa giai đoạn cổ trung đại xuất phát từ mối quan hệ giữa con người và thế giới làm thành vấn đề cơ bản để xây dựng hệ thống triết học của mình, lấy bản thân cuộc sống con người làm triết lý về nhân sinh, đạo đức. Chính vì vậy mà triết học Trung Hoa rất thực tiễn và sâu sắc. Các trường phái triết học có đề cập đến vũ trụ quan, nhưng chung qui điều đó nói đến con người và những quan hệ xung quanh. Dịch học và Đạo giáo quan niệm vũ trụ ban đầu là một khốI mờ mịt, hỗn độn, vô cùng, trong đó tiềm tàng cái vô lý hình rất linh diệu, cường kiện gọi là thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, tức khí dương và khí âm. Hai thể này theo liền, điều hoà vớI nhau để biến hoá và sinh ra con ngườI, vạn vật. Âm dương trở thành lối cấu tạo hai mặt cơ bản của bất kỳ sự vật nào, sự việc nào.

    Dù mỗi học thuyết có đôi chút khác nhau, nhưng cũng đều đi đến công nhận thế giới này là nhất thể. Con người là một phần tử, là tinh hoa của trời đất, vạn vật. Chính vì thế giới và con người là một nên con ngườI cảm thức thế giới trong tư thế của một chủ thể. Con người thấy mình là một bộ phận của tự nhiên, của vạn vật. Điều này thường thấy trong văn học thờI trung đại. Trong văn học thời kỳ này, người ta thường thể hiện cái chung của trời đất, trong đó tâm trạng biểu hiện được bao bọc bởi sự to lớn của tâm trạng chung trước cảnh, mỗi lòng hay tình yêu trước mối lo lớn của dân tộc. Bài thơ bi hùng Cảm hoài của Đặng Dung là một ví dụ:

    Cảm hoài

    Thế sự du nại lão hà,
    Vô cùng thiên địa thập hàm ca.
    Thời lai đồ điếu thành công dị,
    Sự khứ, anh hùng ẩm hận đa.
    Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
    Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
    Quốc thù vị báo, đầu tiên bạch,
    Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.
    Cảm hoài
    Sự thế mang mang tuổi tác rồI,
    Hát vang trời đất, chén mềm môi.
    Vận may, hèn mọn nên trò dễ,
    Việc lỡ anh hùng nuốt giận thôi.
    Phò chúa, những toan nâng trái đất,
    Rửa gươm, ai thể dốc sông trời.
    Quốc thù chưa báo, đầu râu bạc,
    Bao độ gươm mài ánh nguyệt soi.


    (Đông Xuyên dịch)
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...