Báo Cáo ảnh hưởng của hàm lượng chất xơ trong khẩu phần ăn đến việc tạo axit linoleic liên hợp (cla) trong b

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG CHẤT XƠ TRONG KHẨU PHẦN ĂN
    ĐẾN VIỆC TẠO AXIT LINOLEIC LIÊN HỢP (CLA) TRONG BÒ SỮA




    Effect of the content fibre in diet on conjugated linoleic acid (CLA) production in cow milk


    Giang Trung Khoa1, Ivan Larondelle2


    SUMMARY


    Conjugated linoleic acid (CLA) is a group of polyunsaturated fatty acids found in beef, lamb, and dairy products, existing as positional and stereo-isomers of octadecadienoate (18:2). Over the past two decades numerous health benefits have been attributed to CLA in experimental animal models including actions to reduce carcinogenesis, atherosclerosis, onset of diabetes and body fat mass . CLA content in the dairy products is affected by cow variety, cow individual, cow age, especilly by feed. Lots of research have been done in order to increase the CLA content in cow milk. Comparing the two diets for cows var. Pie Noir Holstein, one is the maize ensilage (structural value:1,28/kg dry matter) and the other is the maize ensilage + 1,7 kg straw (structural value: 1,54/kg dry matter), we found that the low fibre- containing portion resulted in the increase of the content of rumenic acid (CLA) and vaccenic acid in milk.
    Key words: CLA, rumenic acid, cow milk, content of fibre, structural value









    1. ĐẶT VẤN ĐỀ


    Các axit linoleic liên hợp (CLA) là hỗn hơp của các đồng phân vị trí và hình học của axit linoleic (cis-9, cis-12 C18:2). Các axit béo chưa no này tồn tại chủ yếu trong chất béo của loài nhai lại, đặc biệt trong sữa và các sản phẩm sữa. Trong các đồng phân của CLA, axit rumenic (cis - 9, trans - 11 C18:2) là quan trọng nhất và chiếm tới 80% tổng lượng CLA trong các sản phẩm sữa. Đối với các loài nhai lại, axit này được tạo ra từ hai con đường: con đường trans-11 (là sản phẩm trung gian của quá trình hydro hoá sinh học axit linoleic trong dạ cỏ) (Bauman và cộng sự, 2003) và con đường tổng hợp nội sinh trong tuyến vú qua quá trình làm

    đói hoá axit Vaccenic nhờ emzym Ä9 - desaturase (Griinari và cộng sự, 2000).








    Từ một vài thập kỷ qua, các phân tử này đã được chứng minh có nhiều tiềm năng có lợi đối với sức khoẻ con người: đóng vai trò như chất bảo vệ chống lại sự phát triển của các tế bào ung thư vú (Chin và cộng sự, 1991); tác dụng ngăn cản đối với các tế bào ung thư biểu mô (Ha và cộng sự, 1987) hay ung thư dạ dầy kết (Liew và cộng sự, 1995); ảnh hưởng tới sự chuyển hoá lipít làm giảm hàm lượng mỡ trong cơ thể (Park và cộng sự, 1999); tác dụng cải thiện chuyển hoá lipoproteine trong máu, chống lại các bệnh về tim mạch (Lee và cộng sự, 1994); ảnh hưởng tốt đối với bệnh đái đường loại II (Risérus và cộng sự, 2002). Thế





    1 Khoa Công nghệ thực phẩm - ĐHNNI,
    2 Unité de biochimie de la nutrition – Université Catholique de Louvain - Vương quốc Bỉ)


    nhưng, hàm lượng CLA trong các loại thực








    phẩm là rất thấp, ngay cả với các sản phẩm sữa (từ 2,7-5,6 mg/g chất béo). Do vậy các nghiên cứu đánh giá về hàm lượng CLA được tiêu thụ hàng ngày bởi con người đã cho thấy, hàm lượng này là không đủ cao để có thể thể hiện thành các lợi ích như đã được chứng minh trên động vật.
    Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hàm lượng CLA trong sữa như: ảnh hưởng của giống (Morales và cộng sự, 2000), của cá thể (Kelly và cộng sự, 1998), tuổi của bò (Stanton và cộng sự, 1997) . và đặc biệt là chế độ ăn mà bò nhận được. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành với mục đích nâng cao hàm lượng CLA trong sữa, đặc biệt là các nghiên cứu về chế độ ăn dành cho bò (bổ sung lipít, vitamin E; các nghiên cứu về chế độ ăn cơ bản .). Kết quả thu được bởi một đội ngũ các nhà nghiên cứu thuộc bộ môn hoá sinh dinh dưỡng - Trường Đại học Catholique de Louvain

    Bß ®ưîc nu«i trong chuång, cã m¸ng ¨n vµ m¸ng uèng riªng. §iÒu nµy cho phÐp kiÓm tra lưîng thùc phÈm ®ưîc ¨n thùc sù bëi mçi bß. KhÈu phÇn ¨n ®ưîc chia lµm hai phÇn b»ng nhau vµ ®ưîc cung cÊp vµo c¸c giê nhÊt
    ®Þnh trong c¸c buæi s¸ng vµ tèi mçi ngµy.
    Hai chÕ ®é ¨n chØ kh¸c nhau bëi viÖc thªm 1,7 kg (chÊt kh«) r¬m trong chÕ ®é ¨n thø hai
    ®Ó lµm t¨ng gi¸ trÞ cÊu tróc cña khÈu phÇn ¨n nµy (chÕ ®é ¨n cã bæ sung r¬m cã gi¸ trÞ cÊu tróc lµ 1,54/kg chÊt kh«, chÕ ®é cßn l¹i lµ 1,28/kg chÊt kh«). C¸c khÈu phÇn ¨n cã thµnh phÇn c¬ b¶n lµ ng« ñ lªn men (b¶ng 2) ®ưîc x©y dùng theo tiªu chuÈn INRA (1998), cho phÐp ®¸p øng nhu cÇu cña bß cã träng lưîng 650kg, s¶n xuÊt 25 lÝt sưa mçi ngµy. Trong khÈu phÇn ¨n cã bæ sung 12g vitamin E ®Ó t¹o
    ®iÒu kiÖn cho viÖc h×nh thµnh axit rumenic vµ h¹n chÕ qu¸ tr×nh oxy ho¸ chÊt bÐo cña sưa.


    Bảng 2. Thành phần của các chế độ ăn thực nghiệm (kg chất khô/ngày)

    (Vương quốc Bỉ) đã chỉ ra rằng, với hai chế

    độ ăn đẳng năng lượng, được bổ sung lipít và vitamin E, khi bò nhận được thức ăn là ngô ủ lên men cho hàm lượng CLA trong sữa cao hơn khi nó nhận được thức ăn là cỏ ủ lên men. Tuy nhiên nghiên cứu này vẫn chưa cho phép xác định liệu sự khác nhau này liên quan đến sự khác nhau về hàm lượng chất xơ trong khẩu phần ăn hay chính do bản chất khác nhau của các khẩu phần ăn cơ sở. Do vậy, nghiên cứu của chúng tôi nhằm làm rõ vấn đề này.


    2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    Thí nghiệm được tiến hành tại Centre Alphonse de Marbaix de UCL à Corroy - le - Grand (Vương quốc Bỉ), theo sơ đồ thực nghiệm Cross-over gồm: hai chế độ ăn, hai giai đoạn ba tuần trên 06 con bò (giống Pie Noir Holstein ở lần tiết sữa thứ hai) được chia làm hai nhóm (bảng 1).


    Bảng 1. Sơ đồ thực nghiệm


    nhóm 1 nhóm 2

    Thành phần Ngô ủ lên men Ngô ủ lên men + rơm
    Ngô ủ lên men 9,5 9,5
    Khô dầu đậu tương 2,16 2,16
    Bã ép củ cải đường 2,16 2,16
    Nutex 2,25 2,25
    Urê 0,03 0,03
    Rơm 0,0 1,70
    CMV 25/5 0,25 0,25
    Tổng số 16,35 18,05
    Ghi chú: - Nutex: dạng thức ăn cô đặc - nguồn bổ
    sung lipít
    - CMV 25/5: Nguồn bổ sung vitamin và khoáng chất


    Sữa của mỗi bò được lấy vào các buổi sáng và tối tất cả các ngày của tuần cuối cùng trong mỗi giai đoạn thực nghiệm để theo dõi sản lượng, hàm lượng chất béo và hàm lượng protein trong sữa. Để đánh giá ảnh hưởng của khẩu phần ăn đến hàm lượng axit rumenic (CLA) và thành phần axit béo của sữa, hai mẫu sữa của mỗi bò được trích ra (khoảng 04 lít) vào các ngày thứ hai và thứ năm trong tuần thứ ba của mỗi giai đoạn thí nghiệm.



    Giai đoạn 1
    Giai đoạn 2



    ngô ủ lên men
    ngô ủ lên men + rơm



    ngô ủ lên men + rơm ngô ủ lên men

    Hàm lượng chất béo của sữa được xác định
    theo phương pháp Gerber (1963); hàm lượng protein được xác định theo phương








    pháp Kjeldahl (A.O.A.C, 1995); hàm lượng các axit béo trong sữa được xác định bằng sắc ký khí cột mao quản (Thermo- Quest, GC trace, Milan, Italie), detector - FID; hàm lượng chất xơ trong khẩu phần ăn được xác định theo phương pháp Goering và Van Soest, (1970). Kết quả được sử lý thống kê bằng phần mềm SAS (1999).


    3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
    3.1 Ảnh hưởng của hàm lượng chất xơ trong khẩu phần ăn đến sản lượng, hàm lượng chất béo và hàm lượng protein trong sữa
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...