Luận Văn 1 số vấn đề về hạch toán kế toán TSCĐ trong DN

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1 số vấn đề về hạch toán kế toán TSCĐ trong DN
    A. LỜI MỞ ĐẦU
    Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với trình độ xã hội hoá cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán trở thành một môn khoa học chân chính và phát huy đầy đủ vị trí của mình.
    Hạch toán là một hệ thống điều tra quan sát, tính toán đo lường và ghi chép đầy đủ,kịp thời các quá trình kinh tế nhằm quản lý quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn.
    Một nền sản xuất với quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã hội hoá và sức phát triển ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh . không thể không tăng cường hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng thời chế độ xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra những tiền đề cho sư phát triển nhanh chóng và toàn diện của tài chính kế toán . Chế độ công hữu tư liệu sản xuất với động lực từ con người và mục tiêu về con người sẽ tạo động lực phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực trong đó có hạch toán kế toán . Và như vậy chỉ trong chế độ xã hội chủ nghĩa hạch toán mới trở thành một công cụ để lãnh đạo nền kinh tế và phục vụ cho mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội.
    Để quản lý được các hoạt động kinh tế cần có số liệu, để có được số liệu phục vụ cho hoạt động quản lý, giám sát đòi hỏi phải thực hiện việc quan sát, đo lường tính toán và ghi chép các hoạt động đó.
    Ở nước ta, sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ hiện nay đã qui định mỗi tổ chức kinh tế phải sản xuất trên thị trường với tư cách là người sản xuất hàng hoá độc lập, tự chịu trách nhiệm lỗ, lãi, chịu trách nhiệm vật chất trước xã hội và người tiêu dùng về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép kinh tế nói trên nhằm thực hiện phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế gọi là hạch toán. Vì vậy mà hạch toán là nhu cầu khách quan của xã hội, và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế. Hạch toán ra đời cùng với quá trình kinh tế với tư cách là do yêu cầu của sản xuất đòi hỏi phải có kiểm tra về lượng những hao phí và kết quả mà quá trình sản xuất tạo ra.
    Theo đó doanh nghiệp phải phấn đấu sao cho chi phí cá biệt của đơn vị mình hoặc thấp hơn chi phí xã hội cần thiết. Nhờ đó mới có điều kiện để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, thoả mãn các yêu cầu khác của xí nghiệp và người lao động. Do vậy, khi thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch hoặc theo đơn đặt hàng của Nhà nước và các tổ chức kinh tế khác xí nghiệp phải tính toán chặt chẽ để hoàn thành với chi phí thấp nhất và hiệu quả đem lại là cao nhất.
    Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách tạo ra chi phí thấp nhất phải có sự kết hợp của rất nhiều yếu tố như: vốn đầu tư , cơ sở hạ tầng, thiết bị công nghệ, môi trường kinh tế, sự kết hợp chặt chẽ giữa các khâu, các giai đoạn của sản xuất, có đội ngũ quản lý, công nhân lành nghề, nắm bắt tốt nhu cầu của thị trường, nguồn nguyên vật liệu dồi dào, giá thành thích hợp .
    Hiệu quả của một đơn vị sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị (tư liệu lao động), sử dụng các yếu tố vật tư lao động, thông qua năng suất làm việc. Như vậy muốn biết hiệu quả của một đơn vị sản xuất kinh doanh ta phải biết máy móc thiết bị đó đã được sử dụng như thế nào đã hết khấu hao hay chưa, đã đến thời phải thay thế hay chưa . do vạy doanh nghiệp cần phải hạch toán tài sản cố định.
    Hạch toán tài sản cố định là một công việc hết sức cần thiết và quan trọng. Cùng với hạch toán giá thành, hạch toán chi phí sản xuất chung . Hạch toán tài sản cố định đã góp phần lớn cho việc quản lý và phát triển sản xuất trong doanh nghiệp .
    Với tầm quan trọng của việc hạch toán TSCĐ ở doanh nghiệp - tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu đề tài "Một số vấn đề về hạch toán kế toán TSCĐ trong doanh nghiệp ".
    Trong chừng mực có hạn của bản chuyên đề này - chỉ xin trình bày một số nội dung chủ yếu trong bản chất của hạch toán TSCĐ doanh nghiệp cũng như đề xuất một số phương pháp giúp cho công tác hạch toán này được chặt chẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có thể vận dụng phần nào trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp mình.
    B. QUY TRÌNH HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
    TRONG DOANH NGHIỆP

    Phần I
    CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠCH TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
    CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
    Tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn thời gian sử dụng dài. Theo quy định của Nhà nước những tài sản có giá trị từ 5.000.000 trở lên và thời gian sử dụng trên 1 năm: là tài sản cố định. Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí kinh doanh. Khác với đối tượng lao động tài sản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng. Vì vậy khi hạch toán tài sản cố định các doanh nghiệp cần quán triệt các nguyên tắc sau:
    1. Xác định đối tượng ghi tài sản cố định hợp lý:
    Thực tế còn rất nhiều doanh nghiệp làm chưa đúng theo nguyên tắc này do đối tượng hạch toán ghi tài sản cố định là từng tài sản riêng biệt, có kết cấu và chức năng khác nhau, hoặc có thể là một tổ hợp liên kết nhiều bộ phận cùng thực hiện một chức năng. Do vậy, cần xây dựng số liệu của từng đối tượng tài sản cố định nhằm thuận tiện và giảm bớt nhầm lẫn trong hạch toán và quản lý tài sản cố định mà nhiều doanh nghiệp mắc phải.
    2. Phân loại tài sản cố định một cách khoa học:
    Ngày nay trong doanh nghiệp có rất nhiều loại tài sản cố định. Tuỳ vào hình thái biểu hiện, tính chất đầu tư công dụng và tình hình sử dụng . Mà các doanh nghiệp đã phân loại như sau:
    - Tài sản cố định hữu hình: Bao gồm toàn bộ những tư liệu lao động có hình thái vật chất cụ thể, có đủ tiêu chuẩn giá trị về thời gian sử dụng theo chế độ quy định (giá trị 5 triệu và thời gian lớn hơn 1 năm).
    - Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất phản ánh một lượng giá trị mà doanh nghiệp đã đầu tư . Đây là những chi phí 5 triệu và thời gian lớn hơn 1 năm mà không hình thành tài sản cố định hữu hình.
    - Tài sản cố đinh thuê tài chính là tài sản cố định mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn, được bên thuê trao quyền quản lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của tài sản cố định.
    - Tài sản cố định tài chính bao gồm các khoản đầu tư tài chính dài hạn có mục đích chiếm lời có thời hạn trên một năm.
    Trong từng loại tài sản cố định kể trên, lại được chi tiết thành từng nhóm theo kết cấu, đặc điểm, tính chất.
    3. Xác định giá trị ghi sổ của tài sản cố định chính xác:
    Căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vào tài sản cố định, tài sản quý hiếm các doanh nghiệp mở ra các thể tài sản cố định, sổ chi tiết tài sản cố định để phản ánh số hiện có và sự vận động của tài sản cố định hữu hình. Đánh giá được tài sản cố định theo nguyên giá và giá trị còn lại. Từ đó, việc ghi sổ phải bảo đảm được chỉ tiêu giá trị của tài sản cố định là nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại.
    Giá trị còn lại = Nguyên giá - Giá trị hao mòn
    a) Xác định nguyên giá tài sản cố định hữu hình được bao gồm các loại:
    - Tài sản cố định mua sắm (bao gồm cả mua mới và cũ): Nguyên giá gồm giá mua thực tế phải trả theo hoá đơn của người bán và các khoản phí (phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử, phí sửa chữa, tân trang .) trừ đi các khoản giảm giá, chiết khấu mua hàng.
    - Tài sản cố định do xây dựng cơ bản bàn giao: Nguyên giá là giá trị thực tế của công trình xây dựng cùng với các khoản chi phí khác liên quan và lệ phí chước bạ (nếu có).
    - Tài sản cố định được cấp, được điều chuyển đến: Nếu là đơn vị hạch toán độc lập: Nguyên giá bao gồm giá trị còn lại ghi sổ ở đơn vị cấp cộng với các phí tổn mới trước khi dùng mà bên nhận phải chi ra (như vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt .)
    Nếu điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc: nguyên giá, giá trị còn lại và số khấu hao luỹ kế được ghi theo sổ của đơn vị cấp trừ đi các phí tổn mới trước khi dùng được phản ánh trực tiếp vào chi phí kinh doanh mà không tính vào nguyên giá tài sản cố định.
    - Tài sản cố định góp vốn liên doanh nhận tăng thưởng, viện trợ, nhận lại vốn góp . Nguyên giá tính theo giá trị thực tế của hợp đồng giao nhận cùng các phí tổn mới trước khi dùng (nếu của hợp đồng giao nhận các phí tổn trước khi dùng (nếu có).
    Các doanh nghiệp chỉ thay đổi nguyên giá tài sản cố định hữu hình khi doanh nghiệp đánh giá lại tài sản cố định, nâng cấp tài sản cố định, tháo gỡ hoặc bổ xung một bộ phận tài sản cố định. Khi đó, xác định lại nguyên giá, giá trị còn lại, số khấu hao luỹ kế của tài sản cố định.
    b) Xác định nguyên giá tài sản cố định vô hình:
    Nguyên giá của tài sản cố định vô hình gồm toàn bộ các chi phí thực tế phải trả, phải chi khi thực hiện phí tổn thành lập, mua sắm .
    c) Xác định nguyên giá tài sản cố định thuê dài hạn:
    Nguyên giá là giá trị hiện tại của các khoản chi trong tương lai được xác định: Nếu hợp đồng thuê có quy định tỷ lệ lãi xuất phải trả theo năm:


    Tổng số tiền thuê TSCĐ phải trả
    Nguyên giá tài sản cố định = -----------------------------------------
    (1+ Lãi suất)thời gian thuê

    Nếu hợp đồng cho thuê cho biết cả số lãi phải trả:
    Nguyên giá TSCĐ
    = Tổng số nợ phải trả theo hợp đồng thuê
    _ Số năm thuê
    x Số lãi phải trả
     
Đang tải...